Thế nào là dân chủ ?
(Tài liệu của tòa đại sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội - Phạm Hồng Sơn và Thư Lê chuyển ngữ)
(Tài liệu của tòa đại sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội - Phạm Hồng Sơn và Thư Lê chuyển ngữ)
Chúng ta đang sống trong một thời kỳ mà tiếng gọi cho tự
do và dân chủ đang vang lên trên khắp địa cầu. Đông Âu vừa vứt bỏ các chính phủ chuyên
chế tồn tại gần nửa thế kỷ và các nước cộng hòa trong khối Xô-viết cũ cũng đang tranh đấu để thay thế chế độ cộng sản tồn
tại gần 75 năm bằng một trật tự dân chủ mới- cái mà trước đây có thể họ chưa bao giờ trải qua. Tuy nhiên,
bi kịch xảy ra xung quanh các thay đổi đáng kinh ngạc trong hệ thống chính trị tại châu Âu đang phủ
một bóng đen lên viễn cảnh tươi sáng mà dân chủ hứa sẽ đem lại - chính sự hứa hẹn này đang liên kết và huy động sức mạnh của mọi người trên khắp thế giới.
Nam Mỹ và Bắc Mỹ hiện nay thực sự đang là một bán cầu của dân chủ; châu Phi đang trải qua một kỷ nguyên vô tiền của cải cách
dân chủ và các thể chế dân chủ mới và năng động hiện đang bén rễ tại châu Á.
Hiện tượng toàn cầu này đang làm cho những người hoài nghi phải suy nghĩ
lại, những người hoài nghi cho rằng dân chủ tự do hiện đại chỉ là một sản phẩm nhân tạo độc nhất của phương Tây và không thể tái tạo
thành công được ở các nền văn hóa
không phải phương Tây. Trong một thế giới mà dân chủ đã được thực thi ở nhiều dân tộc khác nhau như Nhật bản, Italia và
Vênezuêla, các định chế dân chủ có thể
lên tiếng một cách chính thức cho các khát vọng mang tính nhân loại toàn cầu về
tự do và tự quản.
Làn sóng dâng trào mạnh
mẽ vì tự do trong suốt thập kỷ qua đã đảm bảo cho sự thành
công tối hậu của nó. Chester E. Finn, Jr.- giáo sư về chính sách giáo dục và
cộng đồng thuộc trường đại học Vanderbilt và là giám đốc của Tổ chức giáo dục xuất sắc ( Educational
Excellence Network), đã phát biểu trước một nhóm các nhà giáo dục và các thành
viên chính phủ tại Managua, Nicaragua:" Con người tự nhiên đã ưa thích tự do hơn áp bức, giả dụ điều đó có thể thực sự được mang lại, thì điều đó không có nghĩa là các hệ thống chính trị
dân chủ có thể được xây dựng nên và được duy trì bằng sự mong đợi. Ngược lại, các ý tưởng dân chủ luôn tồn tại
nhưng việc thực hiện dân chủ lại lệ thuộc vào rất nhiều yếu tố."
Ngày nay, các giá trị
dân chủ có thể đang được xem lại, nhưng
được xem lại theo suốt quá trình lịch sử lâu dài của loài người, từ cuộc cách
mạng Pháp cuối thế kỷ 18 cho tới sự xuất hiện của các chế độ một đảng vào giữa thế kỷ 20, phần lớn các thể
chế dân chủ còn ít và tồn tại không lâu. Thực tế này không làm cho chúng ta bi
quan hay thất vọng, mà ngược lại đó là sự thách thức chúng ta phải vượt qua. Trong khi các khát
vọng tự do là điều tự nhiên bẩm sinh
của con người thì việc thực hiện dân chủ lại đòi hỏi phải được giáo dục và huấn
luyện. Liệu bản lề của lịch sử có còn tiếp tục mở các cánh cửa của tự do nữa
không? điều này phụ thuộc vào
sự quyết tâm cống hiến và sự khôn ngoan tập thể của chính bản thân người dân
chứ không dựa trên bất kỳ qui luật nào của lịch sử và chắc chắn cũng không dựa
trên lòng nhân từ được mong mỏi từ các nhà
lãnh đạo độc đoán.
Khác với một số nhận
thức, một xã hội dân chủ lành mạnh không chỉ đơn giản là một đấu trường cho các cá
nhân theo đuổi các mục đích của cá nhân họ. Dân chủ sẽ chỉ được thực hiện khi
dân chủ là mong muốn của các công dân có quyết tâm sử dụng quyền tự do mà họ
vất vả mới giành được để tham gia vào đời sống của xã hội - góp tiếng nói của họ vào
các tranh luận tập thể, bầu ra các vị đại diện có trách nhiệm đối với các hành động của họ và chấp nhận đòi hỏi sự dung hòa và thỏa hiệp trong đời sống công cộng. Các công dân của nền dân chủ
được tận hưởng quyền tự do cá nhân, nhưng họ cũng phải chia sẻ trách nhiệm cùng
mọi người khác xây dựng một tương lai trong đó các giá trị cơ bản của tự do và tự quản vẫn tiếp tục được theo đuổi.
Dân chủ có thể là một từ
quen thuộc với nhiều người, nhưng nó là một khái niệm vẫn bị hiểu sai và sử
dụng sai khi các chế độ chuyên chính và các
chính thể quân sự độc tài lợi dụng để kêu gọi sự ủng hộ của quần chúng bằng các
nhãn hiệu dân chủ giả hiệu cưỡng ép.Tuy thế, sức mạnh của tư tưởng dân chủ cũng đã tạo nên những biểu hiện sâu sắc nhất và nhanh
chóng nhất trong lịch sử của ý chí và trí tuệ con người: từ Pericle(1) thời
Aten cổ đại tới Vaclav Havel(2)
ở cộng hòa Séc hiện đại, từ Tuyên ngôn độc lập của Thomas Jefferson năm 1776 tới các
bài diễn văn của Andrei Sakharov(3) năm 1989.
Theo định nghĩa trong từ điển, dân chủ “là chính phủ được thành lập bởi nhân dân trong đó quyền lực tối cao được trao cho nhân dân và được thực hiện bởi nhân dân hoặc bởi các đại
diện được bầu ra từ một hệ thống bầu cử tự do”. Theo Abrham Lincoln, dân chủ là
một chính phủ "của dân, do dân và vì dân".
Tự do và dân chủ thường
hay được sử dụng thay lẫn nhau nhưng hai từ này
không đồng nghĩa với nhau. Dân chủ thực tế là một tập
hợp những tư tưởng và nguyên tắc về tự do và cũng bao gồm một tập hợp các thông
lệ và các thủ tục đã được đúc kết lại từ quá trình lâu dài, thường
không bằng phẳng, của lịch sử. Một cách ngắn gọn, dân chủ là sự thể chế hóa sự
tự do. Trên cơ sở này chúng ta có thể định rõ được các nguyên tắc cơ
bản đã được thử thách qua thời gian đối với một chính phủ lập hiến, vấn
đề nhân quyền, vấn đề bình đẳng trước pháp luật mà
bất cứ một xã hội nào được gọi là dân chủ theo đúng nghĩa của nó cũng cần phải có.
Các thể chế dân chủ được phân ra hai loại cơ bản: Trực tiếp và Đại diện. Trong nền dân chủ trực tiếp, mọi công
dân, không cần thông qua trung gian là các đại diện được bầu hay chỉ định, có thể tham gia vào quá trình tạo
nên các quyết định cho các vấn đề xã
hội/công cộng. Một hệ thống như thế rõ ràng chỉ có thể thực hiện được với một số ít người- ví dụ:trong một tổ
chức cộng đồng hay một hội đồng bộ lạc nào đó hay một đơn vị địa phương của một liên đoàn laođộng khi mà các thành viên có thể gặp gỡ
nhau trong một phòng họp để bàn bạc, thảo luận
các vấn đề và đi tới quyết định bằng sự đồng thuận hoặc theo
nguyên tắc biểu quyết theo đa số. Những người Aten
cổ đại, là thể chế dân chủ đầu tiên, đã thực hiện kiểu dân chủ trực tiếp với một hội đồng bao gồm số lượng thành viên chỉ tới 5000 đến 6000 - có thể đây là số lượng tốiđa để có
thể tập hợp được ở một địa điểm và thực hiện sự dân chủ trực tiếp.
Xã hội hiện đại, với kích thước và tính phức tạp rất lớn của
nó, ít có cơ hội cho loại dân chủ trực tiếp. Ngay như ở vùng đông bắc Hoa kỳ, cuộc họp thị trấn New England
đã thành một truyền thống thiêng liêng, thì hiện nay các cộng đồng đã phát triển lớn tới mức không thể tập hợp được tất cả các cư dân ở một nơi để tiến hành
bầu, biểu quyết trực tiếp cho các vấn đề có tác động tới cuộc sống của chính họ.
Ngày nay hình thức dân
chủ phổ biến nhất, dù là một thị trấn 50.000 người hay một dân tộc trên 50
triệu người, là hình thức dân chủ đại diện: trong đó các công dân bầu ra các công chức là những
người đưa ra các quyết định chính trị, xây dựng luật
và quản lý các chương trình vì lợi ích công cộng. Nhân danh nhân dân, các công
chức đó phải cân nhắc kỹ càng các vấn đề công cộng phức tạp theo một quá trình có tính
hệ thống và tính trí tuệ, quá trình này đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian,
sức lực và vật chất mà thường không thể thực hiện được đối với một số đông các công dân đơn lẻ. Có
nhiều cách rất khác nhau để bầu ra các vị công chức. Ví dụ, ở mức độ quốc gia,
các nhà lập pháp có thể được chọn lựa từ các
bang mà mỗi bang bầu một đại diện ứng cử duy
nhất. Theo một cách khác gọi là hệ thống đại diện theo tỷ lệ, mỗi đảng chính trị được đại diện trong cơ
quan lập pháp theo tỷ lệ đạt được trong tổng bầu cử quốc gia. Bầu cử tại tỉnh
hay địa phương cũng có thể theo mẫu như mức độ quốc gia hoặc bằng cách thân
tình hơn thông qua sự đồng thuận của các nhóm
thay cho bầu cử. Dù được bầu theo cách nào
thì các vị công chức trong nền dân chủ đại diện cũng phải hoạt động và làm việc nhân danh nhân dân và
luôn phải chịu trách nhiệm cho các hành động của họ trước nhân dân.
Các thể chế dân chủ là
các hệ thống trong đó mọi công dân được tự
do đưa ra các quyết định chính trị theo nguyên tắc đa số. Nhưng nguyên tắc đa số cũng chưa phải là dân chủ: ví dụ, không ai
có thể gọi một hệ thống nào đó là công bằng hoặc
bình đẳng nếu hệ thống đó chấp nhận cho 51% dân số
đàn áp 49% dân số còn lại với nhân danh đa số cả. Trong một xã hội dân chủ, nguyên tắc đa số phải được ràng buộc với sự đảm bảo cho các quyền con người của cá nhân, các
quyền này, đổi lại, lại đóng vai
trò bảo vệ quyền lợi cho bên thiểu số dù đó là dân tộc ít người, nhóm tôn giáo hay chính trị hoặc chỉ đơn giản là những người thua cuộc trong tranh
luận về một vấn đề lập pháp nào đó. Các quyền của thiểu số không phụ thuộc vào ý
nguyện của bên đa số và cũng không thể
bị loại bỏ bởi biểu quyết đa số. Các quyền lợi của
thiểu số được bảo vệ bởi vì các luật dân chủ và các định chế của nó bảo vệ quyền lợi cho mọi công
dân.
Diane Ravitch, nhà
nghiên cứu, tác giả và là cựu trợ lý cho bộ trưởng giáo dục Hoa kỳ đã viết trong một bản tham luận cho hội thảo
giáo dục tại Ba lan:" khi một thể chế dân chủ kiểu đại diện hoạt động đúng theo hiến pháp mà hiến
pháp đó có qui định giới hạn cho quyền lực của chính
phủ đồng thời đảm bảo các quyền cơ bản cho mọi công dân, thì chính phủ đó gọi là nền dân chủ lập hiến. Trong một xã hội
như thế, các nguyên tắc đa số và các quyền thiểu
số được bảo vệ bởi luật và thông qua sự thể chế hóa
các điều luật”. Đây chính là các thành phần cơ bản
cho mọi thể chế dân chủ hiện đại cho dù nó có thể
thay đổi theo hoàn cảnh lịch sử, văn hóa hay kinh tế.
Mặc dù có nhiều sự khác biệt rất lớn giữa các dân tộc và xã hội, các yếu tố cơ
bản như chính phủ lập hiến, nguyên tắc đa số kết hợp với quyền thiểu số, quyền cá nhân và nguyên tắc tuân
theo luật đều có thể tìm thấy ở
Canađa và Côxtarica, Pháp và Bốtsoana, Nhật bản và Ấnđộ.
Dân chủ không chỉ là một
tập hợp các điều luật hợp hiến và
các thủ tục để xác định cách thức
hoạt động cho chính phủ. Trong một thể chế dân chủ, chính phủ chỉ là một thành
phần cùng tồn tại trong một kết cấu xã hội bao gồm rất nhiều các định chế khác nhau, các đảng chính trị, các tổ
chức và các hiệp hội. Tính chất đa dạng này được gọi là đa nguyên và thể chế dân chủ đó qui định sự tồn tại, tính pháp lý hay quyền lực của cáùc tổ
chức và các định chế khác trong một
xã hội dân chủ không phụ thuộc vào chính phủ. Trong một xã hội dân chủ luôn có
hàng ngàn các tổ chức tư nhân hoạt động ở mức độ địa phương hay quốc gia. Rất nhiều trong số tổ chức
đó đóng vai trò trung gian giữa các cá nhân và các định chế của chính phủ hay các tổ chức xã hội
phức tạp khác mà họ cũng là một thành phần, hoặc thực hiện các vai trò, nhiệm
vụ mà chính phủ không được giao và tạo cơ hội
cho các cá nhân thực hiện quyền và trách nhiệm của mình với tư cách là công dân
của một thể chế dân chủ.
Các nhóm này thể hiện
quyền lợi cho các thành viên của họ theo rất nhiều cách: ủng hộ các ứng cử viên
vào các vị trí trong các cơ quan công quyền, tranh luận các vấn đề, và cố gắng tạo ảnh hưởng lên các quyết định chính trị. Chỉ thông qua các nhóm như thế,
các cá nhân mới có được con đường để tham gia một cách có ý nghĩa vào cả chính
phủ và các cộng đồng của chính họ. Có
rất nhiều ví dụ cho các nhóm như thế: các tổ chức nhân đạo và nhà thờ, các nhóm
môi trường và thân hữu, các tổ chức kinh doanh và các liên đoàn lao động.
Trong một xã hội độc đoán, các tổ chức như thế bị kiểm soát, phải
có giấy phép hoạt động và bị theo rõi hoặc phải chịu trách nhiệm đối với chính phủ. Trong một thể chế dân chủ,
quyền lực của chính phủ được xác định rõ ràng và bị giới hạn chặt chẽ bởi luật.
Và kết quả là các tổ chức tư nhân như thế được tự do, không bị chính phủ kiểm soát; mà ngược lại, rất nhiều
các tổ chứcđó vận động chính phủ và tìm cách làm nâng cao trách nhiệm của chính
phủ đối với các hànhđộng của chính phủ. Một số tổ
chức khác quan tâm tới các vấn đề nghệ thuật, thực hiện đức tin tôn giáo,
nghiên cứu học thuật hoặc các vấn đề khác có thể có tiếp xúc ít hay hoàn toàn không với chính phủ.
Trong một vương quốc
riêng tư sôi nổi của thể chế dân chủ như thế, các công dân đều có mọi khả năng tự do và trách nhiệm đối với vấn đề tự quản lý - không bị sức ép của
bất kỳ bàn tay quyền lực nào của nhà nước.
· Quyền tối cao của nhân dân.
· Chính phủ thành lập dựa trên sự nhất trí của
người dân.
· Nguyên tắc đa số.
· Các quyền thiểu số.
· Đảm bảo các quyền cơ bản của con người.
· Bầu cử tự do và công bằng.
· Bình đẳng trước pháp luật.
· Thực hiện đúng luật.
· Hiến pháp đặt ra các giới hạn quyền lực đối với chính phủ.
· Đa nguyên về chính trị, kinh tế và xã hội.
· Thúc đẩy các giá trị của dung hòa, thực dụng, hợp tác và thỏa hiệp.
Chúng ta coi những sự
thật sau đây
là hiển nhiên: mọi con người được sinh ra đều bìnhđẳng, họ đã được tạo hóa ban cho một số quyền không thể
chuyển nhượng được, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền được theo đuổi hạnh phúc. Để bảo đảm cho các
quyền đó, các chính phủ được thiết lập nên với quyền lực chính đáng dựa trên sự nhất trí của những người bị
quản lý ( người dân).
Trong những lời đáng ghi nhớ này của bản Tuyên ngôn độc lập Hoa kỳ, Thomas Jefferson đãđưa ra một
nguyên tắc cơ bản làm cơ sở cho sự thành lập chính phủ dân chủ. Các chính phủ
trong thể chế dân chủ không ban phát các quyền tự do cơ bản mà Jefferson đã nêu, mà chính các chính phủ đó được lập ra để bảo vệ các quyền tự do đó -
các quyền mà mọi con người cá nhân hiển nhiên có do sự tồn tại của cá nhân đó.
Theo quan điểm của các nhà triết học ánh sáng của thế kỷ
17 và 18 thì các quyền không thể chuyển nhượng được là các quyền tự nhiên do Tạo hóa ban cho họ. Các quyền này không bị phá
hủy khi xã hội dân sự được thiết lập và không một xã hội hay một chính
phủ nào có thể xóa bỏ hoặc " chuyển nhượng" chúng.
Các quyền không thể
chuyển nhượng bao gồm các quyền tự do ngôn luận và thể hiện, tự do tín ngưỡng
và nhận thức, tự do hội họp và quyền được bảo hộ bình đẳng trước pháp luật.
Tuy nhiên, đây chưa phải là bản
liệt kê đầy đủ các quyền mà các
công dân có được trong một nền dân
chủ. Các xã hội dân chủ đồng thời thừa nhận các
quyền dân sự như quyền được xét xử công bằng, và còn lập nên các quyền chủ chốt
mà bất kỳ chính phủ dân chủ nào cũng phải duy trì. Vì các quyền này tồn tại
không phụ thuộc vào chính phủ, do đó chúng không thể bị luật pháp bãi bỏ cũng như không phụ thuộc
vào ý muốn nhất thời của đa số cử tri nào đó. Ví dụ như điều bổ xung đầu tiên của Hiến
pháp Hoa kỳ không đưa ra quyền tự do tín
ngưỡng hay tự to báo chí cho dân chúng. Điều bổ xung đó nghiêm cấm quốc hội
thông qua các luật vi phạm tới tự do ngôn lụân, tự do tín ngưỡng và quyền hội
họp ôn hòa. Nhà sử học, Leonard Levy đã phát biểu:" Các cá nhân có thể trở nên tự do khi chính phủ
của họ không tự do ."
Các nội dung chi tiết và
các thủ tục của luật pháp liên quan tới quyền con người cần phải thayđổi tùy
theo xã hội, nhưng tất cả các nền dân chủ đều được giao trọng trách trong việc xây dựng một cấu trúc xã hội
lập hiến, lập pháp để bảo đảm cho các quyền
con người đó.
Tự do ngôn luận và thể
hiện là huyết mạch của bất kỳ xã hội dân chủ nào. Tranh luận, bỏ phiếu, hội họp
và phản kháng, thờ phụng và bảo đảm công lý cho mọi
người - tất cả những điều này có được đều dựa trên sự tự do và thông suốt của ngôn luận và thông
tin. Patrick Wilson, người Canađa, sáng lập ra chương trình truyền hình Đấu tranh cho Dân chủ đã quan sát thấy:" Dân chủ là trao đổi thông tin: mọi người trao đổi với người khác
về các vấn đề chung của họ và gây dựng nên một số phận chung. Trước khi con
người tự quản được
mình thì họ cần phải được
tự do để tự thể hiện mình đã."
Các công dân trong thể
chế dân chủ được sống với một niềm
tin chắc chắn là thông qua traođổi cởi mở về các tư tưởng và quan điểm, chân lý và sự thật sẽ được tìm thấy để chiến thắng sai lầm hay dối trá, đồng thời các quan điểm hay
các tư tưởng khác sẽ được nhận biết giá trị rõ hơn, các vấn đề thỏa hiệp cũng được xác định rõ ràng và khi đó con đường dẫn tới tiến bộ, phát triển sẽ được
khai thông. Sự cởi mở trong trao đổi càng lớn thì kết quả càng tốt đẹp. Nhà bình luận người Mỹ F.B White đã diễn tả điều đó theo cách sau:” Báo chí trong đất nước tự do của chúng ta
được tin cậy và hữu ích cho mọi người không phải vì nó có đặc điểm tốt đẹp nàođó mà chính vì sự đa dạng rất lớn của nó. Chừng nào càng có nhiều
chủ thể, mỗi chủ thể đều theo đuổi một sự
thật riêng của họ thì chúng ta - những người dân càng có cơ hội đạt tới chân lý và mọi vấn đề luôn được sáng tỏ. Đó là sự an toàn của số đông.”
Trái hẳn với các chế độ độc tài, các chính phủ dân chủ không kiểm
soát, ra lệnh hay đánh giá nội dung của
ngôn luận viết hoặc nói. Thể chế dân chủ dựa trên các công dân có học vấn và
hiểu biết mà khả năng tiếp cận của họ đối với thông tin càng lớn thì càng làm
cho họ có nhiều khả năng tham gia đầy đủ hơn vào các hoạt động xã hội. Sự dốt nát sinh ra sự thờ ơ. Thể
chế dân chủ đạt được thịnh vượng dựa
trên sức mạnh của các công dân luôn được tắm trong các dòng tư tưởng, dữ kiện, ý kiến và sự xét đoán một cách tự do. Nhưng chính phủ nên làm gì
trong trường hợp các phương tiện thông tin hoặc một số tổ chức khác lạm dụng
quyền tự do ngôn luận để tạo ra các thông tin
mà theo đa số là không đúng sự thật, phản cảm, vô trách nhiệm hoặc đơn
giản chỉ là khó chấp nhận? Nói chung, câu trả lời sẽ là: không làm gì cả! đơn giản chỉ là: công việc của chính phủ không
phải để xử lý những vấn đề như thế. Nói chung, phương
thuốc cho tự do ngôn luận chính là ngôn luận tự do hơn. Điều này có vẻ nghịch lý, nhưng nhân danh ngôn
luận tự do, thể chế dân chủ đôi khi phải bảo vệ
quyền của các cá nhân và các tổ chức khi họ tự cho rằng các chính sách phi dân
chủ đang đàn áp ngôn luận tự do. Các công dân của xã
hội dân chủ bảo vệ các quyền này với một niềm tin tưởng là sự tranh luận cởi mở
cuối cùng sẽ dẫn tới sự thật lớn hơn và các hành động của dân chúng sẽ khôn ngoan hơn so với khi
ngôn luận hay sự bất đồng bị bóp nghẹt.
Hơn thế nữa, lý do cần
phải có ngôn luận tự do còn ở chỗ sự đàn áp ngôn luận tự do mà ta thấy đối với ai đó hôm nay sẽ có khả năng là mối đe dọa tới ngôn luận tự do của chính chúng ta
vào ngày mai. Một trong những biện luận kinh điển cho quan điểm này là của nhà triết học người Anh John Stuart
Mill, ông đã chỉ ra từ năm 1859
trong luận văn “ Bàn về Tự do" rằng toàn dân bị tổn hại khi ngôn luận bị đàn áp. "Nếu dư luận là đúng, họ bị tước đoạt mất cơ hội chuyển sự nhầm
lẫn thành sự thật, nếu dư luận là sai, họ mất cơ hội để có được nhận thức rõ ràng hơn và mất cơ hội
nhìn nhận sự thật sâu sắc hơn khi được đối chiếu với sai lầm.”
Hệ quả của tự do ngôn
luận là quyền của nhân dân được nhóm họp và đòi hỏi một cách ôn hòa chính phủ phải lắng nghe
những mối bất bình của họ. Không có quyền hội họp, không có quyềnđược lắng
nghe, khi đó tự do ngôn luận không còn giá trị nữa. Do đó, tự do ngôn luận coi như là vô nghĩa nếu
không được gắn bó mật thiết với quyền hội họp, phản
kháng và quyền đòi hỏi thay đổi. Các chính phủ dân chủ có thể qui định một
cách hợp pháp về thời gian và địa điểm của các cuộc
tập hợp và tuần hành chính trị để duy trì hòa bình,
nhưng họ cũng không thể sử dụng quyền lực để đàn áp sự phản kháng hoặc ngăn cản các nhóm, các tổ chức phản
đối lên tiếng cho công luận nghe rõ.
Tự do tín ngưỡng, hay
nói rộng hơn là tự do về nhận thức có nghĩa là không ai bị đòi hỏi phải tin theo một tôn giáo hoặc một niềm
tin nào ngược lại với mong muốn của riêng họ. Hơn nữa, không ai bị trừng phạt
hay ngược đãi bằng bất kỳ hình
thức nào chỉ vì họ chọn lựa một tôn giáo này chứ không phải tôn giáo khác, hoặc
không chọn lựa một tôn giáo nào cả. Nhà nước dân chủ công nhận niềm tin tôn
giáo của con người là vấn đề hết sức riêng tư.
Theo một nghĩa liên quan, tự do tôn giáo có nghĩa là không một người nào bị
chính phủ bắt buộc phải chấp nhận một nhà thờ hoặc một niềm tin chính thức nào
cả. Trẻ em không bị bắt buộc phải theo học ở một trường tôn giáo và không một
ai bị đòi hỏi phải tham dự các công việc tôn giáo, cầu
nguyện hoặc tham gia vào các hoạt động tôn giáo ngược với ý nguyện của họ. Trải qua lịch sử và
truyền thống lâu đời, rất nhiều các quốc
gia dân chủ đã thiết lập một cách chính thống các nhà thờ hoặc tôn giáo với sự
bảo trợ của nhà nước. Tuy nhiên, điều đó không làm giảm nhẹ trách nhiệm của các chính phủ dân chủ
trong vai trò bảo vệ tự do cho các cá nhân mà tín ngưỡng của họ khác với tôn
giáo được khuyến khích một cách chính thống.
Các thể chế dân chủ dựa
trên nguyên tắc là chính phủ tồn tại để phục vụ nhân dân, còn nhân dân không tồn tại để phục vụ chính phủ. Nói cách khác, nhân dân là
các công dân của nhà nước dân chủ chứ không phải là đối tượng của nhà nước dân chủ. Khi nhà nước bảo
vệ những quyền của các công dân, thì đáp lại, các công dân cho nhà nước lòng trung thành của họ. Dưới
một chế độ độc tài, nhà nước tồn
tại như một thực thể tách rời xã hội, đòi hỏi lòng trung thành và sự phục vụ từ những người dân của họ
mà không có một bổn phận tương xứng nào đối với dân chúng để đảm bảo có được sự nhất trí của người dân đối
với các hành động của họ.
Chẳng hạn, khi các công
dân trong một xã hội dân chủ đi bầu cử là họ thực thi
quyền và trách nhiệm của họ để nhằm xác định ai sẽ
là người thay mặt họ thực hiện quản lý xã hội. Trái lại, trong một nhà nước độc tài, những hoạt động bầu cử chỉ nhằm hợp pháp hóa sự lựa chọn
đãđịnh sẵn của chế độ. Sự bầu cử trong một xã hội như thế không dính líu gì tới
các quyền cũng như trách nhiệm của các công dân, mà chỉ là một sự bày tỏ cưỡng
bức sự ủng hộ của công chúng cho chính phủ.
Tương tự, các công dân
trong một xã hội dân chủ được tận hưởng quyền
tham dự vào các tổ chức không phụ thuộc vào chính phủ và được tự do tham gia vào các hoạt động của xã hội.Đồng thời họ cũng phải chấp nhận
nghĩa vụ như quyền tham gia đó: Tự tìm hiểu và học hỏi các vấn đề nảy sinh, biết dung hòa khi xử sự với những
người có quan điểm trái ngược, và biết
thỏa hiệp khi cần thiết để đạt được thỏa thuận.
Tuy nhiên, trong một nhà
nước độc tài chỉ có rất ít hoặc không có các tổ chức
hoặc các nhóm tình nguyện tư nhân. Các tổ chức đó, nếu có, không đóng vai trò như các phương
tiện cho các cá nhân để tranh luận các vấn đề
hay thực hiện các công việc riêng của họ mà họ chỉ phục vụ như một cánh tay của
nhà nước để bắt các đối tượng của
nhà nước phải phục tùng.
Thực hiện nghĩa vụ quân
sự cho ta một ví dụ khác nhau và trái ngược nhau về quyền và trách nhiệm trong
các xã hội dân chủ và phi dân chủ. Cả hai loại xã hội đó đều yêu cầu các thanh niên tham gia nghĩa vụ
quân sự trong thời bình. Trong nhà nước độc tài, sự bắt buộc này được áp đặt một cách đơn phương. Trong nhà nước dân chủ, thời hạn
phục vụ trong quân đội là một nhiệm vụ mà
các công dân phải thực hiện thông qua luật của chính phủ do chính các công
dânđó bầu ra. Trong mọi xã hội, việc thực hiện nghĩa vụ quân sự thời bình có
thể không được các cá nhân hoan
nghênh. Nhưng người lính-công dân trong một xã hội dân chủ thực hiện nghĩa vụđó
với một nhận thức là họ đang đảm nhiệm một bổn
phận mà xã hội của anh ta đã tự cam kết phải thực
hiện. Hơn thế nữa, các thành viên trong một xã hội dân chủ có quyền thực hiện
nghĩa vụ đó theo cách tập thể
hoặc thay đổi bổn phận đó: giải trừ nghĩa vụ quân sự bắt buộc và thành lập quân đội tự nguyện như Hoa kỳ và một số nước khác đã làm; thay đổi thời hạn phục vụ trong quân đội như ở Đức; hoặc ở Thụy sĩ, duy
trì một đội ngũ nam giới dự bị
cho nghĩa vụ quân sự như một phần cơ bản của quyền công dân.
Quyền công dân trong
những ví dụ kể trên dẫn đến một định nghĩa rộng
hơn về quyền và nghĩa vụ, bởi lẽ chúng là hai mặt đối lập của một vấn đề. Việc thực hiện các quyền
của một cá nhân cũng đồng thời là trách nhiệm của họ phải bảo vệ và nâng cao
các quyền đó của chính họ và của
người khác. Ngay cả các công dân trong các thể chế dân chủ đã được thiết lập vững mạnh cũng thường hiểu sai mối quan hệ đó và
thường chỉ chú ý tới lợi ích của các quyền trong khi phớt lờ các trách nhiệm,
nghĩa vụ. Như nhà chính trị học Benjamin Barber ghi nhận:" Dân chủ thường được hiểu như là sự thống trị của số đông và quyền càng được hiểu như sự sở hữu của các cá nhân và dẫn đến như là sự đối lập tất yếu đối với dân chủ số đông. Nhưng như thế là hiểu sai
cả về quyền lẫn dân chủ."
Chúng ta nhận thấy một
sự thật chắc chắn là khi các công dân thực hiện các quyền cơ bản hay quyền
không thể chuyển nhượng được - như tự do ngôn
luận, hội họp và tôn giáo thì chính các quyền đó sẽ thiết lập nên các giới hạn đối với mọi chính phủ được xây dựng trên cơ sở
dân chủ. Do đó những quyền cá nhân
chính là bức tường thành ngăn chặn sự lạm dụng của chính phủ hoặc bất kỳ số
đông chính trị nhất thời nào.
Nhưng theo một nghĩa
khác, các quyền cũng như các cá nhân con người, không hoạt động một cách cô lập. Quyền không phải là sự sở
hữu riêng của cá nhân mà nó chỉ tồn tại khi nó được thừa nhận bởi các công dân khác của xã hội.
Cử tri, như nhà triết học người Mỹ Sidney Hookđã diễn tả đó là " người trông coi sau chót đối với sự tự do của chính họ.”. Với quan điểm
này thì chính phủ dân chủ do dân bầu và có trách nhiệm trước dân không thể là
kẻ đối lập với các quyền cá nhân mà phải là người
bảo hộ các quyền đó. Chính khi nâng cao
các quyền lợi của họ mà các công dân trong một thể chế dân chủ thực hiện các
nghĩa vụ và bổn phận của họ.
Nói rộng ra thì các
nghĩa vụ này bao gồm cả sự tham gia vào các hoạt động dân chủ để đảm bảo dân chủ được thực hiện.
Ở mức tối thiểu, các công dân nên tự tìm hiểu, nghiên cứu các vấnđề bức xúc
đang diễn ra trong xã hội của họ, như việc bỏ phiếu bầu cho các vị trí lãnh đạo cao cấp sao cho sáng suốt. Và thực hiện một
số nghĩa vụ khác như tham gia đoàn hội thẩm trong các
phiên tòa dân sự hoặc hình sự một cách tự nguyện hoặc đôi khi tuân theo luật qui định.
Cốt lõi của hành động dân chủ là sự tham gia của các công dân một
cách tích cực và tự do lựa chọn vào trong đời sống công cộng của cộng đồng hay quốc gia của họ. Nếu không
duy trìđược sự tham gia rộng rãi này, dân chủ sẽ tàn lụi và trở thành đặc quyền cho một nhóm nhỏ đãđược lựa chọn trong
các tổ chức. Nhưng với sự cam kết tích cực của các cá nhân trong toàn xã hội,
các thể chế dân chủ có thể vượt qua các cơn bão chính trị hay kinh tế - là các
vấn đề không thể tránh khỏi đối với mọi xã hội, mà
không phải hy sinh các quyền lợi và sự tự do mà họđã tuyên thệ gìn giữ.
Sự tham gia tích cực vào đời sống xã hội thường được hiểu một cách hạn hẹp như là sự tranh giành
các vị trí chính trị. Nhưng sự tham gia của các công dân trong một xã hội dân
chủ mang ý nghĩa rộng lớn hơn rất nhiều việc chỉ tham gia vào các cuộc tranh
cử. Ở mức độ tỉnh hoặc địa phương,
các công dân có thể tham gia vào những việc như họat động trong các ủy ban trường học, thành lập các
nhóm cộng đồng hoặc kể cả giữ các
vị trí lãnh đạo ở địa phương. Ở mức
độ bang, tỉnh, hoặc quốc gia, các công dân có thể đóng góp ý kiến của họ bằng
cách phát biểu hoặc gửi văn bản tới các cuộc tranh luận về các vấn đề công cộng
hoặc họ có thể tham gia vào các đảng chính trị, liên đoàn lao động hoặc các tổ chức tình nguyện. Cho dù ở mức độ nào, một nền dân chủ lành mạnh cũng dựa trên
sự tham gia liên tục, công khai của số đông công dân.
Diane Ravitch đã viết:" Dân chủ là một quá trình, một
cách thức sống và làm việc cùng nhau.Đó là một quá trình luôn phát triển chứ
không đứng im. Nó đòi hỏi sự hợp tác, thỏa hiệp, và
dung hòa giữa các công dân. Làm cho dân chủ được thực hiện là một điều khó khăn chứ không dễ dàng. Tự do đồng nghĩa với nghĩa vụ chứ không phải tự do từ
nghĩa vụ.”
Thể chế dân chủ là sự
biểu hiện các lý tưởng về tự do và tự thể hiện, nhưng nó cũng là sự thể hiện rõ
ràng về bản chất của loài người. Nó không đòi hỏi con người phải có một đạo đức toàn diện, nó chỉ đòi hỏi con người phải có trách nhiệm. Như nhà thần học người Mỹ
Reinhold Nieburh đã phát biểu:" Khả
năng của con người đấu tranh cho sự công bằng sẽ tạo nên dân chủ, nhưng sự suy đồi của con người dẫn tới bất công sẽ tạo nên đòi hỏi tất yếu của dân chủ."
Như một nguyên lý, sự
bảo vệ quyền con người được ủng hộ ở khắp nơi:
được đưa vào hiến pháp của các nước trên khắp thế giới cũng như được đưa vào trong Hiến chương Liên hợp quốc
hoặc trong các thỏa thuận quốc tế như thỏa ước Helsinki ( hội nghị về an ninh
và hợp tác châu Âu - CSCE ).
Nhưng việc phân biệt các
loại quyền khác nhau của con người lại là một vấn đề khác. Gần đây, có một xu thế, đặc biệt lưu
hành trong các tổ chức quốc tế, là mở rộng các quyền cơ bản của con người. Từ
các tự do cơ bản về ngôn luận và đối xử bình đẳng trước pháp luật,
các tổ chức đó bổ xung thêm các quyền có việc làm, quyền được hưởng giáo dục, quyền có tính văn hóa riêng
hay quốc tịch và có điều kiện sống thích
hợp.
Các đề nghị đó đều là những nguyện vọng có ý nghĩa,
nhưng khi những yêu cầu như thế trở thành quyền sẽ có nguy cơ làm giảm giá trị
ý nghĩa của các quyền cơ bản của người công dân, của con người . Hơn nữa, chúng
làm giảm đi sự phân biệt giữa các
quyền mà mọi cá nhân đều có và cũng làm sao
nhãng mục tiêu mà mọi cá nhân, mọi tổ chức, mọi chính phủ quyết tâm phấnđấu để
đạt được.
Để bảo vệ các quyền
không thể chuyển nhượng được, như quyền tự do ngôn luận, các chính phủ phải
biết kiềm chế bằng cách tự giới hạn các hành động của mình. Trong khi để khuyến khích giáo dục, phát triển y tế và đảm bảo công ăn việc làm lại đòi hỏi chính phủ điều ngược lại: chính phủ phải tích cực tham gia
trong việc thúc đẩy một số chính sách và chương trình xã hội. Sự chăm sóc đầy
đủ về sức khỏe và các cơ hội giáo dục phải là quyền lợi đương nhiên của mọi trẻ em. Nhưng điều đáng buồn là trên thực tế không phải như
vậy, và khả năng của mỗi xã hộiđể đạt được mục tiêu này cũng rất khác nhau. Tuy
nhiên, trong khi mong muốn biến tất cả mọi khát vọng của loài người trở thành
quyền của con người, vô hình chung các chính phủ đang có nguy cơ làm tăng thêm chủ nghĩa hoài
nghi và mang lại sự coi nhẹ đối với tất cả các quyền
của con người.
· Tự do ngôn luận, thể hiện và tự do báo chí.
· Tự do tôn giáo.
· Tự do hội họp và lập hội.
· Quyền được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật.
· Quyền được tố tụng đúng đắn và xét xử công bằng.
Quyền bình đẳng trước pháp luật hay sự bảo vệ bình đẳng của luật như vẫn được phát biểu là một yếu
tố cơ bản đối với bất kỳ một xã
hội công bằng và dân chủ nào. Bất kể giàu hay nghèo,đa số vô thần hay thiểu số
tôn giáo, liên minh chính trị của nhà nước hay phe đối lập, tất cả đều được hưởng sự bảo hộ bình đẳng của pháp luật.
Nhà nước dân chủ không đảm bảo là cuộc sống sẽ đối xử bình đẳng với tất cả mọi người do đó nó cũng không có trách nhiệm để
thực hiện điều đó. Tuy nhiên, John P. Frank - chuyên gia về luật hiến pháp đã viết: " Nhà nước không được áp đặt thêm các điều bất công cho xã hội trong bất kỳ hoàn cảnh
nào, nhà nước cần phải đối xử công bằng và bình đẳng với tất cả mọi người dân của nó”.
Không ai có quyền cao
hơn luật, hơn nữa, luật chính là sáng tạo của con người chứ không phải là sự áp đặt lên con người. Công dân của thể chế dân chủ
cầu viện tới luật vì họ hiểu rằng, bằng cách gián tiếp, họ đang cầu viện tới chính họ - là những người đã tạo ra luật. Khi luật được xây dựng bởi chính người dân - người phải
phục tùng luật đó sau này thì khi đó cả luật và dân chủ sẽ cùng được thực thi.
Frank chỉ ra rằng trong
bất kỳ một xã hội nào của lịch sử thì những người nắm quyền quản lý hệ thống tư
pháp hình sự đều có khả năng dẫn tới
sự lạm dụng và dễ có hành động bất công. Nhân danh
nhà nước, các cá nhân có thể bị bỏ tù, tài sản bị tịch thu, bị hành hạ, bị đi đầy và bị hành quyết mà không có sự chứng
minh hợp pháp, và thường cũng không có một kết tội công khai nào. Không có một
xã hội dân chủ nào chấp nhận những lạm dụng như thế.
Mọi nhà nước bắt buộc
phải có quyền lực để duy trì trật tự và xử
phạt tội phạm, nhưng các nguyên tắc và thủ tục để nhà nước thực thi pháp luật bắt buộc phải được công khai, rõ ràng, không che dấu, không
tùy tiện, không được sử dụng vào mục đích chính trị của nhà nước.
· Cảnh sát không có quyền vào và lục soát bất kỳ
ngôi nhà của người dân nào nếu không có lệnh của tòa án với lý do rõ ràng. Thể
chế dân chủ không cho phép cảnh sát mật gõ cửa nhà dân vào lúc nửa đêm.
· Không ai bị bắt, giam giữ nếu không có văn bản
rõ ràng chỉ ra sự vi phạm. Những người đó không phải chỉ được biết lý do chính xác của sự kết tội chống
lại họ mà còn phải được trả tự do ngay lập
tức nếu tòa thấy sự kết tội đó không có chứng cứ và
sự bắt giữ là vô lý.
· Không được kéo dài thời gian giam giữ đối với người bị cho là có tội, họ cần phải được đưa ra xét xử trước công luận một cách
không chậm trễ, được đối diện và chất vấn trước những người kết tội họ.
· Nhà chức trách phải chấp nhận thả tự do khi
người bị coi là có tội đã đóng tiền bảo lãnh hoặc theo một số điều kiện nào đó trong khi chờ phiên tòa xét xử, nếu như ít có nguy cơ người đó trốn chạy hay gây thêm tội ác. Các hình phạt độc ác hay bất bình thường so với truyền thống
hay qui luật của xã hôi phải được ngăn cấm.
· Không ai có thể bị cưỡng ép tự làm chứng chống
lại họ. Cần phải nghiêm cấm tuyệt đối mọi hành động tự kết tội một cách
cưỡng bức. Như một hệ quả tất yếu, cảnh sát không được sử dụng sự hành hạ hoặc
sự lạm dụng về thân thể hay tinh thần đối với người bị tình nghi trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Hệ thống
luật pháp trong đó ngăn cấm sự thú tội
cưỡng bức sẽ làm giảm ngay lập tức động cơ của cảnh sát sử dụng sự hành hạ, đe dọa hoặc bất kỳ một hình thức lạm dụng nào để có được thông tin, ngay cả tòa án cũng không
cho phép đưa các thông tin kiểu
đó ra trước tòa xét xử để chứng minh.
· Mọi người đều không thể bị kết tội kép: không thể bị kết tội hai lần cho
cùng một tội. Bất kỳ người nào đã được tòa xử vô tội đều có thể không bao giờ bị kết tội lại với cùng
hành vi đó.
· Vì khả năng lạm dụng quyền của các nhà chức
trách, do đó mọi luật ex post
facto đều bị bãi bỏ ( luật ex post facto là các luật được xây dựng sau khi đã xảy ra sự kiện để người nào đó có thể bị kết án cho dù điều luật đó không có hiệu lực vào thời điểm xảy ra sự kiện).
· Bị đơn có thể có thêm sự bảo hộ để chống lại các cưỡng bức của nhà nước. Ví dụ tại Hoa kỳ, người
bị kết tội có quyền có luật sư làm đại diện cho họ trong suốt quá trình tiến hành tố tụng kể cả khi
chính bản thân họ không đủ tiền để chi phí cho
sự đại diện hợp pháp đó. Cảnh sát phải thông báo cho người bị tình nghi về các
quyền của họ vào lúc bị bắt, kể cả quyền có luật sư, quyền giữ im lặng ( để tránh cưỡng bức nhận tội).
Một thủ đoạn bất công thường thấy là kết tội các bên đối lập vào tội phản bội tổ quốc ( phản quốc).
Do đó, tội phản quốc bắt buộc phải được giới hạn
một cách thận trọng về định nghĩa để nó không bị lợi dụng trở thành vũ khí dập
tắt mọi phê phán, góp ý đối với chính phủ. Các
giới hạn đó không có nghĩa là làm suy giảm quyền lực của nhà nước để thực thi luật pháp và trừng phạt tội phạm. Mà
ngược lại, hệ thống tư pháp hình sự trong một xã hội dân chủ sẽ đạt được hiệu quả khi sự quản lý của nó được
chính người dân đánh giá là công bằng và có tác dụng bảo vệ cho mọi quyền cá
nhân cũng như lợi ích chung của xã hội.
Các thẩm phán có thể được chỉ định hay được bầu cho một nhiệm kỳ giới
hạn hoặc vô hạn. Mặc dù được chọn, nhưng điều
cốt yếu là họ phải độc lập, không bị phụ
thuộc vào thế lực chính trị cầm quyền để đảm bảo tính vô tư trong công việc.
Các thẩm phán không thể
bị truất quyền nếu chỉ vì các lý do không quan trọng hay chỉ thuần túy vì chính
trị,họ chỉ bị truất quyền khi phạm các tội nghiêm trọng hoặc có hành động nguy hiểm và phải tiến hành theo đúng các thủ tục tố tụng và đưa ra tòa xét xử.
Nền tảng chính xây dựng
nên một chính phủ dân chủ đó là hiến pháp - đó là sự tuyên bố chính thức các qui định, các giới hạn, các thủ tục và các định chế. Hiến pháp của một quốc gia là bộ luật
tối cao của lãnh thổ đó, và tất cả mọi công
dân, từ thủ tướng tới người dân đều chịu sự chi phối của
nó. Ở mức độ tối thiểu, hiến pháp ( thường được hệ thống hóa thành một văn bản
duy nhất) xây dựng quyền lực cho chính phủ quốc gia, mang lại sự đảm bảo cho
các quyền cơ bản của con người và đưa ra các thủ tục hoạt động cơ bản cho chính phủ.
Mặc dù phải có tính ổn định và phổ quát, hiến pháp cũng buộc phải có
khả năng thay đổi và bổ xung khi hiến pháp trở nên lạc hậu. Hiến pháp bằng văn
bản lâu đời nhất là hiến pháp Hoa kỳ, bao gồm bảy điều chính và 27 phần bổ xung. Tuy nhiên, văn
bản này chỉ là nền tảng cho vô số các quyết định pháp lý, các đạo luật, các quyết định của tổng thống và các
thực thi theo truyền thống đã được xây dựng qua suốt 200 năm tồn tại và làm
cho Hiến pháp Hoa kỳ luôn sốngđộng và thực tiễn.
Kiểu phát triển của hiến
pháp như thế diễn ra ở mọi thể chế dân chủ. Nói chung, có hai trường phái tư
tưởng về quá trình bổ xung hoặc thay đổi hiến pháp. Một trường phái chấp nhận quá trình thay đổi khó khăn, đòi hỏi nhiều bước và phải có sự
chấp thuận của đa số lớn. Như thế, hiến
pháp ít bị thay đổi và chỉ thay đổi khi có các lý do bắt
buộc cùng với sự ủng hộ của công chúng. Đây chính là mô hình của Hiến pháp Hoa kỳ, là sự công bố ngắn gọn
các nguyên tắc tổng quát, các quyền lực và các giới hạn đối với chính phủ, đồng thời liệt kê rõ ràng và
chi tiết hơn về các trách nhiệm, các thủ tục của chính phủ, cũng như chỉ rõ các
quyền cơ bản của công dân trong điều khoản về đạo luật
các quyền.
Một cách khác đơn giản hơn để bổ xung, thay đổi hiến pháp mà
nhiều quốc gia hiện đang sử dụng là các bổ
xung có thể được chấp nhận bởi cơ
quan lập pháp và được thông qua các cử
tri trong lần bầu cử tiếp theo. Các hiến pháp thay đổi theo cách này có thể khá
dài, với những điều khoản cụ thể mà
chúng chỉ khác chút ít so với phần tổng quát của pháp luật.
Chưa có một hiến pháp
nào như hiến pháp Hoa kỳ, được viết trong thế kỷ
18, lại có thể tồn tại không thay đổi cho tới tận cuối thế kỷ 20. Tương tự,
không có một hiến pháp nào đang có hiệu lực ngày
hôm nay có thể tồn tại cho tới thế kỷ tới mà không có khả năng thay đổi - mặc
dù vẫn phải bám sát theo các nguyên tắc về quyền cá nhân, thực thi đúng cách và chính phủ dựa trên sự nhất trí của
người dân.
Bầu cử là một định chế trọng tâm của các chính phủ dân chủ
kiểu đại diện. Vì trong một nền dân chủ, quyền lực của nhà nước chỉ được thực thi khi có sự nhất trí của người dân (
người bị quản lý). Cơ chế căn bản để chuyển sự nhất trí đó thành quyền lực nhà
nước là tổ chức bầu cử tự do và công bằng.
Tất cả các nền dân chủ
hiện đại đều tổ chức bầu cử, nhưng không phải tất cả
các cuộc bầu cử đều là dân chủ. Các chế độ độc tài cánh hữu (right-wing dictatorships), các chế độ Mácxít và các chế độ độc đảng cũng tiến hành bầu cử để hợp pháp hóa cho quyền lực của họ. Trong các
cuộc bầu cử như thế, có thể chỉ có một ứng cử viên hoặc một nhóm ứng cử viên mà
không có sự lựa chọn nào khác. Các cuộc bầu cử đó có thể đề cử nhiều ứng cử viên cho một vị
trí, nhưng chỉ có các ứng cử viên được sự chấp thuận của chính phủ mới được đảm bảo chọn lựa với
những thủ thuật hoặc sự hăm dọa các ứng cử viên khác. Một số cuộc bầu cử có thể
có sự lựa chọn thực sự, nhưng chỉ được thực hiện trong nội bộ đảng cầm quyền. Tất cả các loại bầu cử
đó đều không phải dân chủ.
Jaene Kirkpatrick, nhà
nghiên cứu và cựu đại sứ Hoa kỳ tại Liên
hợp quốc đã đưa ra định nghĩa sau: “ Các cuộc bầu cử dân chủ
không đơn thuần là biểu tượng cho một thể chế, mà là các hoạt động mang tính chất cạnh tranh, định kỳ, đầy đủ
và xác định, trong đó các nhân
vật chủ chốt của chính phủ được bầu lên do chính những công dân được hưởng quyền tự do phê phán, chỉ trích chính
phủ, xuất bản các phê phán và đề xuất các lựa chọn
khác một cách công khai.”
Nguyên tắc trên đây của Kirkpatrick muốn nói lên điều gì?
Đó là các cuộc bầu cử
dân chủ mang tính cạnh tranh. Các đảng đối lập và các ứng cử viên phảiđược hưởng quyền tự do ngôn
luận, quyền tập hợp nhau và biểu tình khi cần thiết để thể hiện tiếng nói phê phán chính phủ một
cách công khai và giới thiệu các chính sách cũng như các ứng cử viên cho cử
tri. Việc đơn giản chấp nhận phe
đối lập tham dự bỏ phiếu kín cũng chưa đủ là dân chủ. Bầu cử mà trong đó phe đối lập bị cấm sử dụng các phương tiện
thông tin phát sóng (radio, TV) hoặc bị sách nhiễu hoặc các tờ báo của họ bị
kiểm duyệt thì cũng không phải là dân chủ. Đảng cầm quyền có thể được hưởng lợi thế trong phân chia vị trí
trí cầm quyền, nhưng các nguyên tắc và cách thức bầu cử phải công bằng.
Tính Định kỳ của bầu cử dân chủ: Các thể chế dân chủ không bầu các nhà độc tài hay các tổng thống cho cả đời họ. Các công chức được bầu phải có trách
nhiệm với nhân dân và họ phải quay lại gặp các cử tri theo định kỳ để có được sự nhất trí cho họ tiếp tục
giữ quyền hay không. Nghĩa là các công chức trong thể chế dân chủ phải chấp
nhận rủi ro có thể bị bãi miễn khỏi chức vụ. Chỉ có một ngoại lệ đó là vị trí thẩm phán, để ngăn cách họ khỏi áp lực của công chúng và đảm bảo tính vô tư trong công việc, các thẩm
phán có thể được bầu hoặc chỉ định suốt đời và chỉ bị phế truất khi mắc các sai
lầm nghiêm trọng.
Tính Đầy đủ của bầu cử dân chủ: Việc xác định các công dân và cử tri phải đủ rộng để bao gồm một tỷ lệ lớn các công dân
trưởng thành. Một chính phủ do một nhóm nhỏ và độc quyền lựa chọn không phải là dân chủ, cho dù
cách thể hiện hoạt động của nó là dân chủ.
Một trong những đấu tranh vĩ đại của dân
chủ trong lịch sử là cuộc đấu tranh của những nhóm
bị khai trừ ( sắc tộc, tôn giáo,phụ nữ ) đòi quyền công dân đầy đủ để có quyền bầu cử và đề cử vào các vị trí lãnh đạo. Ví dụ, tại Hoa kỳ, khi Hiến pháp ký vào năm
1787 thì chỉ những người da trắng sở hữu tài sản mới có quyền bầu cử và đề cử. Tiêu chuẩn sở hữu này chấm dứt vào đầu thế kỷ 19 và tới năm 1920 phụ nữ mới giành được quyền bầu cử. Đối với người Mỹ da đen thì
mãi tới phong trào đòi quyền dân chủ diễn
ra vào những năm 1960 mới giành được quyền bầu cử đầy đủ
tại phía nam Hoa kỳ. Và cuối cùng, tới năm 1971 các công dân trẻ tuổi mới được
trao quyền bầu cử khi Hoa kỳ hạ tuổi bầu cử từ 21 xuống 18 tuổi.
Tính Xác định của bầu cử dân chủ: bầu cử dân chủ để xác định sự lãnh đạo cho chính phủ. Những vị đại diện cho dân
chúng được bầu thông qua hình thức phổ thông để nắm quyền lực mà quyền lực này sẽ bị luật pháp và hiến pháp chi
phối, điều chỉnh. Họ không phải là những nhà lãnh đạo bù nhìn hay tượng trưng.
Sau cùng, các cuộc bầu
cử dân chủ không bị hạn chế trong việc lựa chọn các ứng cử viên. Các cử tri
cũng có thể phải quyết định các vấn đề chính
sách một cách trực tiếp thông qua trưng cầu dân ý và các sáng kiến được đưa vào bỏ phiếu kín. Ví dụ, tại Hoa kỳ,
các vấn đề lập pháp có thể phải
quyết định trực tiếp trước các cử tri. Khi có một sáng kiến luật, chính các
công dân có thể thu thập một số lượng chữ ký đủ theo qui định ( thường theo tỷ
lệ % số cử tri đăng ký tại chính phủ) và yêu cầu vấn đề đó phải được đưa ra bỏ phiếu trong lần tiếp
theo, ngay cả khi có sự phản đối của cơ quan lập pháp chính phủ hay thống đốc.
Như tại bang California, các cử tri phải xử lý hàng tá các sáng kiến luật mỗi
khi tổ chức bầu cử, từ những vấn đề liên quan tới ô nhiễm môi trường tới vấn đề giá bảo hiểm ô-tô.
Các nền dân chủ được phát triển trên cơ sở tính công khai và
tính trách nhiệm, với một điểm đặc biệt quan trọng
là hành động tự bầu cử. Để loại
bỏ hình thức tự do bỏ phiếu kín và hạn chế tối đa khả năng hăm dọa khi bầu cử, cử tri phải được
quyền loại bỏ các hoạt động bỏ phiếu kín bí mật, đồng thời phải bảo vệ được các
thùng phiếu và việc kiểm phiếu phải được tiến hành công khai tối đa có thể, khi đó các công dân mới tin tưởng rằng kết quả bầu cử
là chính xác và chính phủ đã được thành lập do chính sự nhất trí của họ.
Một trong những khái
niệm khó khăn nhất để một số người chấp nhận, đặc biệt là ở những quốc gia đang trải qua thời kỳ chuyển giao quyền lực có
tính chất lịch sử trước mũi súng là khái niệm " phe đối lập trung thành". Tuy nhiên, ý tưởng
này lại có tính chất sống còn cho dân chủ, khái niệm này có nghĩa là các bên
trong một thể chế dân chủ cùng chia sẻ một cam kết chung hướng tới các giá trị
cơ bản của xã hội. Các đối thủ chính trị không
cần thiết phải thương yêu nhau, nhưng họ phải biết chấp nhận nhau và thừa nhận
vai trò quan trọng và hợp pháp của nhau. Hơn nữa, các nguyên tắc cơ bản của xã
hội phải khuyến khích sự dung hòa và sự lễ độ trong các tranh luận xã hội.
Khi bầu cử kết thúc,
người thua cuộc chấp nhận sự quyết định của cử tri. Nếu đảng cầm quyền thua cuộc, sự chuyển giao
quyền lực sẽ diễn ra một cách hòa bình. Cho dù ai thắng cuộc, các bên đều nhất trí hợp tác với nhau để giải quyết các
vấn đề chung của xã hội. Những người thua cuộc, nay trở thành bên đối lập chính trị, biết rằng họ sẽ không bị mất
cuộc sống hay phải ra tòa. Ngược lại, bên đối lập, cho dù họ gồm một hay nhiều đảng phái khác nhau, có thể tiếp tục tham gia
vào đời sống xã hội với một nhận thức là họ đang đóng vai trò quan trọng trong một nền dân
chủ xứng đáng với tên gọi như
thế. Không phải họ trung thành với các chính sách cụ thể của chính phủ mà họ
trung thành với tính hợp pháp cơ bản của nhà nước và trung thành với quá trình
dân chủ.
Khi tới lần bầu cử tiếp
theo, các đảng đối lập lại có cơ
hội để cạnh tranh quyền lực. Hơn nữa, xã hội đa nguyên, do số người nắm quyền lực trong chính phủ chỉ có giới
hạn, còn tạo cơ hội tranh cử cho những người thua cuộc vào các vị trí quyền lực
công cộng khác ngoài chính phủ. Những người thua cuộc trong bầu cử có thể lựa
chọn tiếp tục hoạt động như một đảng đối
lập chính thức, hoặc họ cũng có thể quyết định tham gia vào các hoạt động chính trị, các tranh luận công cộng thông
qua viết sách báo, giảng dạy hoặc liên kết với các tổ chức tư nhân quan tâm tới
các vấn đề chính sách xã hội.
Cuối cùng, bầu cử dân chủ không phải là cuộc chiến đấu một mất một còn mà chỉ là sự cạnh tranh để được phục vụ xã hội.
Dân chủ không chỉ là một
tập hợp các tổ chức hay các định chế của nó. Một nền
dân chủ lành mạnh chỉ có được trên cơ sở một nền
văn hóa dân chủ của công dân. Văn hóa ở đây không nói đến nghệ thụât, văn học
hay âm nhạc mà nên hiểu theo nghĩa, theo Diane Ravitch, là "cách ứng xử,
thói quen và các qui phạm nhằm xác định khả năng tự quản của người dân”.
Tác giả viết tiếp "
hệ thống chính trị độc đoán khuyến khích
một nền văn hóa thụ động và lãnh cảm. Chế độ đó tìm cách tạo nên tính cách công dân dễ bảo và qui phục.
Ngược lại, nền văn hóa công dân của một xã hội dân chủ được xây dựng bởi các hoạt động tự do lựa chọn
của các cá nhân và các tổ chức. Các công dân trong một xã hội tự do được tự theo đuổi các ham muốn của họ, được thực
hiện các quyền và tự chịu trách nhiệm đối với cuộc sống của họ. Họ tự quyết định cho mình mọi vấn đề từ nơi làm việc, cái họ muốn làm, nơi sinh
sống, có tham gia vào đảng chính trị hay
không, cái họ muốn đọc,...Đó là các quyết định mang tính cá nhân chứ không phải là chính trị."
Văn học, nghệ thuật, sân
khấu, điện ảnh - các thể hiện nghệ thuật của một nền văn hóa cũng tồn tại không
phụ thuộc vào chính phủ. Xã hội dân chủ có thể ủng hộ hoặc khuyến khích các
nghệ sĩ, nhà văn, nhưng không đặt ra các tiêu chuẩn nghệ thuật, không quyết định giá trị sáng tác hay kiểm duyệt các tác
phẩm nghệ thuật. Các nghệ sỹ không phải là nhân viên của nhà nước hay là người
phục vụ cho nhà nước. Sự đóng góp trước tiên của
nền dân chủ cho nghệ thuật là sự tự do - tự do sáng tạo, tự do thể nghiệm, tự
do thể hiện thế giới của tinh thần và trí tuệ của nhân loại.
Giáo dục là bộ phận
xương sống của bất kỳ xã hội nào và càng đặc biệt quan trọng đối với nền dân chủ. Thomas Jeffeson đã viết:
" nếu một dân tộc nào hy vọng trở nên ngu dốt và tự do trong một kỷ nguyên
văn minh tức là dân tộc đó đã mong muốn một điều chưa bao giờ xảy ra và cũng sẽ không bao
giờ xảy ra."
Trái với các xã hội độc đoán luôn tìm cách khắc sâu thái độ chấp nhận thụ động vào dân chúng, mục đích giáo dục trong một xã hội dân chủ là đào tạo nên những công dân có tính cách độc lập, khả năng lập luận, đầu óc phân tích mà
hiện nay các tính cách công dân đó đã trở thành các
phương châm, tập quán hết sức quen thuộc của thể chế dân chủ. Giáo sư
Vanderbilt Chester E.Finn, Jr. đã phát biểu trước các
nhà giáo dục ở Nicaragua:" Có thể ngay khi sinh ra con ngườiđã có niềm
khát khao tự do cá nhân, nhưng để có được sự tự do đó
cho chính họ và con cháu họ thì con người cần phải được giáo dục, huấn luyện để có những hiểu biết
về xã hội và chính trịđể đòi hỏi các quyền tự do đó.”
Từ quan điểm đó, nhiệm vụ của giáo dục trong một thể chế
dân chủ không chỉ để ngăn chặn sự tuyên truyền cho các chế độ độc đoán hay chỉ mang lại các giá trị chính
trị trung lập. Điều đó là không thể, vì mọi nền giáo dục đều truyền tải được các giá trị có chủ đích hoặc
không có chủ đích. Trên thực tế, các sinh viên có thể được dạy về các nguyên lý của dân chủ theo một
tinh thần tranh luận cởi mở mà bản thân tinh thần này cũng đã là một giá trị dân chủ quan trọng, đồng thời các sinh viên cũng được khuyến khích phê phán, đả phái lối tư duy cổ điển bằng các lý luận và
các nghiên cứu cẩn trọng. Có thể đó sẽ là các tranh luận gay gắt, nhưng các giáo trình giảng dạy
của nền dân chủ không né tránh các sự kiện, hiện tượng có thể gây tranh cãi
hoặc không dễ chịu.
Finn cho rằng: "
giáo dục đóng một vai trò độc lập trong các xã hội tự do. Trong khi các
nền giáo dục của các chế độ khác chỉ là công cụ
cho chính chế độ đó. Trong thể chế dân
chủ thì chế độ là người phục vụ cho
nhân dân - những người có khả năng lập nên, duy trì và cải tổ chếđộ đó, khả
năng này phụ thuộc phần lớn vào chất lượng và hiệu quả của nền giáo dục mà họ đã tiếp thu. Có thể nói rằng giáo dục trong thể
chế dân chủ giúp cho sự tự do phát triển mãi mãi.
Loài người mang trong
mình rất nhiều ham muốn đôi khi trái ngược nhau.
Con người vừa muốn an toàn, lại cũng ưa thích mạo hiểm; con người khát vọng tự
do cá nhân nhưng lại cũng đòi hỏi sự bình đẳng.
Dân chủ cũng như thế.
Rất nhiều các vấn đề căng thẳng, thậm chí
nghịch lý, luôn hiện diện trong bất kỳ một xã hội dân chủ nào. Theo Laray
Diamond - đồng chủ bút tạp chí Dân
chủ ( Journal of Democracy) và là nhà nghiên cứu tại học viện Hoover, một
nghịch lý trung tâm là sự tồn tại giữa xung đột và đồng thuận. Theo nhiều
cách định nghĩa thì dân chủ không có gì khác là một tập hợp các nguyên tắc nhằm
quản lý được các xung đột. Đồng
thời, các xung đột cần phải được giải quyết trong khuôn khổ một số nguyên tắc
nhất định và phải dẫn tới kết quả là thỏa hiệp, đồng thuận hoặc các thỏa thuận khác mà tất cả
các bên đều chấp nhận nó có tính
hợp pháp. Bất kể một sự thiên vị cho bên nào cũng có nguy cơ đe dọa sự toàn vẹn của cam kết chung đối với xã hội. Nếu các nhóm, các tổ chức chỉ
nhận thức dân chủ không hơn một diễnđàn để áp đặt các yêu cầu của mình thì xã hội có thể tan vỡ ngay trong
diễn đàn đó. Nếu chính phủ dùng áp lực thái quá để đạt được sự đồng thuận hoặc đàn áp tiếng nói
của dân chúng thì xã hội cũng có thể bị tan nát ngay.
Câu trả lời sẽ là không
có câu trả lời đơn lẻ hoặc dễ dàng. Dân
chủ không phải là một cỗ máy có thể tự hoạt động với các nguyên tắc và các cơ chế hoạt động thích hợp. Xã hội dân chủ đòi hỏi sự cam kết của các công dân cùng chấp
nhận tính chất không tránh khỏi của xung đột cũng như sự cần thiết của dung hòa.
Điều quan trọng là chúng
ta phải nhận thức được rằng rất nhiều các
xung đột trong một xã hội dân chủ không phải là vấn đề loại bỏ cái “đúng” hay “ cái “sai” mà là sự
diễn đạt khác nhau về quyền dân chủ và các ưu tiên
trong xã hội. Có rất nhiều các tranh luận như thế tại Hoa kỳ. Ví dụ: liệu có
hợp lý không khi phân bổ một tỷ lệ công việc nào đó cho các nhóm thiểu số trước đây đã bị phân
biệt đối xử? Nhà nước có quyền lấy nhà của ai để mở một con đường không cần thiết? Ai có lợi khi
nhà nước tìm cách cấm đốn gỗ với lý do bảo vệ
thế giới hoang dã, nhưng lại ảnh hưởng tới việc làm và kinh tế của một số người
sống phụ thuộc vào ngành công nghiệp gỗ? Quyền công dân có bị vi phạm không?
hoặc quyền lợi của cộng đồng có được bảo vệ
không? khi cảnh sát có thể bắt mọi người dừng lại một cách ngẫu nhiên để kiểm soát buôn lậu ma túy. Đó là những vấn đề không đơn giản và những qui tắc rộng lớn của
dân chủ chỉ có ý nghĩa như các chỉ dẫn giúp cho việc đề cập và phân tích các vấn đề đó. Trên thực tế thì câu trả lời cũng thay đổi theo thời gian. Đó cũng là lý do nền văn hóa
dân chủ được phát triển mạnh mẽ. Tối thiểu thì các cá nhân, các nhóm khác nhau
buộc phải có thiện chí dung hòa sự khác nhau của các bên khác, phải thừa nhận
mỗi bên đều có quyền và quan điểm hợp pháp. Các bên tham gia tranh cãi, cho
dù ở cấp độ địa phương hay nghị
viện, sau đó đều có thể gặp nhau trên tinh thần thỏa hiệp để tìm một giải pháp cụ thể để cùng nhau xây dựng trên những nguyên tắc
chung của đa số và quyền thiểu số.
Trong một số trường hợp có thể phải viện tới hình thức bỏ phiếu, nhưng thường
các nhóm có thể đạt được sự đồng thuận
thân thiện hoặc sự hòa giải thông qua tranh luận và thỏa hiệp. Các quá trình
tranh luận, hòa giải đó sẽ mang lại lợi ích
cho việc xây dựng sự tin cậy cần thiết cho các bên trong việc giải quyết các
vấn đề trong tương lai.
Theo Diane Ravitch:
" Liên minh để Xây dựng” là "
Tinh hoa của hoạt động dân chủ”. Nguyên
tắc đó dạy cho các bên biết cách thương lượng với
nhau, biết cách thỏa hiệp và biết cách hoạtđộng trong khuôn khổ qui định của
hiến pháp. Với mục đích để xây dựng sự liên minh, các nhóm khác nhau sẽ biết được cách tranh luận một cách hòa bình, cách
theo đuổi mục đích riêng của mình một cách dân chủ và
sau cùng là biết cách sống trong một thế giới của sự đa dạng.”
Dân chủ không phải là
các chân lý được khám phá và bất
biến, dân chủ là một cơ chế mà quađó con người có thể đạt được chân lý một cách
không hoàn hảo thông qua các va chạm và thỏa hiệp giữa các tư tưởng, giữa các
cá nhân và các định chế khác nhau. Dân
chủ là thực dụng. Các tư tưởng và các giải pháp cho các vấn đề không phải được dùng để chống lại một ý thức hệ cứng nhắc nào đó mà là được cố gắng thực hiện trong một thế giới thực, nơi mà các tư
tưởng, các giải pháp đó được mang ra bàn luận
và có thể bị thay đổi, được chấp nhận hay
bị loại bỏ.
Sự tự quản cũng không
thể tránh được các sai lầm hay
chấm dứt được các đấu tranh về sắc tộc hoặc đảm bảo sự thịnh vượng cho kinh tế.
Tuy nhiên, nó cho phép tranh luận và kiểm định lại để có thể thấy rõ sai lầm và giúp cho các nhóm, các tổ
chức gặp gỡ nhau để giải quyết các khác
biệt và tạo ra các cơ hội cho đổi mới và đầu tư là các động lực chính cho sự phát triển kinh tế.
Những người theo chủ
nghĩa độc đoán và một số nhà phê bình thường có một
nhận thức sai lầm chung là dân chủ sẽ không đủ sức mạnh để trấn áp và không đủ quyền lực cho chính phủ để lãnh đạo. Quan điểm này sai lầm về cơ bản: các thể
chế dân chủ chỉ yêu cầu sự giới hạn cho chính phủ chứ không yêu cầu chính phủ
phải yếu đi. Xem lại dòng lịch
sử, thực tế khi mới xuất hiện các nền dân chủ đều yếu ớt và lẻ tẻ, thậm chí ngay cả vào thời điểm thuận lợi trong thập kỷ trỗi dậy của dân
chủ. Các nền dân chủ cũng không thể chống lại được qui luật của lịch sử, nó
cũng bị suy sụp do các thất bại về chính trị, bị thua cuộc do các chia rẽ nội
bộ hay bị phá hủy do nạn ngoại xâm. Tuy nhiên, thời gian qua các nền dân chủ
cũng đã chứng tỏ được sự hồi sinh kỳ diệu của nó và chứng minh rằng: bằng sự cam
kết và sự ủng hộ của các công dân, nó có thể vượt qua được các khó khăn khắc nghiệt về kinh tế, hòa
giải được các chia rẽ dân tộc và xã hội và khi cần
thiết thể chế dân chủ cũng chiến thắng trong các cuộc chiến.
Đó thực sự là những vấn đề về dân chủ được các nhà phê bình đề cập nhiều nhất, và đó cũng chính là các yếu tố làm cho dân chủ được hồi sinh. Các quá trình tranh luận, bất đồng và thỏa hiệp mà một số người cho là điểm yếu thì chính đó lại là các điểm rất mạnh của dân chủ. Chắc chắn, chưa có ai kết tội dân chủ
vì đã đạt được hiệu quả đặc biệt khi cân nhắc các vấn đề trong tranh
luận: quá trình quyết định theo cách dân chủ
trong một xã hội lớn và phức tạp có thể diễn ra hỗn độn, mệt mỏi và tiêu tốn nhiều thời gian. Nhưng
cuối cùng, chính phủ được thành lập dựa trên
sự nhất trí của nhân dân có thể phát ngôn và hành động với sự tự tin và quyền lực mà những điều này không có trong một chế độ mà sức mạnh của nó được đặt bấp bênh trên sức mạnh quân sự hoặc
trên một bộ máy của đảng không được dân bầu.
Một trong những đóng góp quan trọng nhất cho việc thực hiện dân
chủ là sự phát triển hệ thống Kiểm tra và Cân bằng nhằm đảm bảo quyền lực chính trị được phân tán, phi
tập trung. Đó là hệ thống được thiết lập trên niềm
tin sâu sắc là chính phủ ưu việt nhất khi các khả năng lạm dụng quyền hạn của
nó bị khống chế và khi nó càng gần gũi dân chúng.
Theo thuật ngữ thông
thường thì Kiểm tra và Cân bằng có 02 nghĩa : chế độ liên bang và phân quyền.
Chế độ liên bang là sự phân chia lãnh đạo ở các mức độ địa phương, tỉnh lỵ, các bang
và quốc gia. Ví dụ, Hoa kỳ là một nước cộng hòa liên bang bao gồm nhiều bang,
mỗi bang đều có luật pháp riêng
và quyền lực độc lập với chính phủ
liên bang. Không giống như kiểu phân tán chính trị ở các quốc gia Anh, Pháp,
các nước này đều có một cấu trúc
chính trị nhất thể, các bang của Hoa kỳ không thể bị xóa bỏ hoặc thay đổi bởi
chính phủ liên bang. Mặc dù sức mạnh ở cấp độ quốc gia tại Hoa kỳ tăng lên rất nhiều so với quyền lực của các
bang trong thế kỷ 20, các bang vẫn lĩnh các trách nhiệm lớn trong các lĩnh vực
như giáo dục, sức khỏe, giao thông và thực thi pháp luật. Trong các hệ thống
chính trị tập trung hoặc nhất thể, các lĩnh vực đó do chính phủ quốc gia quản lý. Đổi lại, mỗi
bang của Hoa kỳ thường phải tuân theo kiểu mẫu của liên bang bằng cách ủy quyền
nhiều chức năng như trường học, sở cảnh sát cho các cộng đồng địa phương. Sự
phân chia sức mạnh và quyền lực trong một hệ thống liên bang chưa bao giờ diễn
ra một cách suôn sẻ, trật tự. Ví dụ, các tổ chức liên bang, bang và địa phương có thể có các kế hoạch trùng nhau
hoặc mâu thuẫn với nhau. Nhưng chính quyền liên bang vẫn muốn tăng tối đa các
cơ hội cho công dân của mình tham gia tích cực vào các hoạt động của xã hội dân chủ.
Ở nghĩa thứ hai, Kiểm
tra và Cân bằng nhằm nói đến sự chia tách quyền
lực mà các nhà xây dựng hiến pháp Hoa kỳ 1789 đã dày công dựng lên để đảm bảo sức mạnh chính trị sẽ không bị tập
trung vào trong một nhóm thế lực của chính phủ quốc gia. James Madison, người được coi là giữ vai trò chính trong việc soạn
thảo bản hiến pháp Hoa kỳ, sau này là tổng thống thứ 04 của Hoa kỳ, đã viết:" Sự tập trung tất cả quyền lực,
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp vào trong cùng một bàn tay có thể chính
thức được gọi là sự bất công và bạo tàn."
Phân chia quyền lực là
một thuật ngữ gây hiểu sai trong một số cách dùng vì hệ thống bị phân chia bởi
Madison và những người soạn thảo Hiến pháp khác đề cập đến có ý nghĩa là một hệ thống bao gồm
nhiều phần hơn là quyền lực bị tách biệt. Ví dụ, quyền lập pháp là thuộc quốc
hội, nhưng các luật đã được thông qua quốc hội có thể bị phủ quyết bởi
tổng thống. Ngược lại, để phủ quyết lại quyết định của tổng thống, quốc hội
buộc phải tập hợp đủ 2/3 đa số biểu quyết trong cả hạ viện lẫn thượng viện.
Tổng thống chỉ định các đại sứ, các thành viên chính phủ và chịu trách nhiệm đàm phán các hiệp ước quốc tế, nhưng tất cả các
quyết định đó phải có sự chấp thuận của thượng nghị
viện. Việc chọn các thẩm phán cũng tương tự như thế. Với một ví dụ khác, hiến
pháp qui định chỉ có quốc hội mới có quyền tuyên bố chiến tranh, mặc dù tổng
thống là tổng chỉ huy các lực lượng quân đội, đó cũng chính là nguồn gốc của sự căng thẳng giữa hai phe
trong suốt thời gian chiến tranh Việt nam những năm 1960 và đầu những năm 1970 và trong cuộc xung đột ngắn vùng vịnh 1990-1991. Do sự cần thiết
phải có chấp thuận của quốc hội thì các dự án chính trị mới có hiệu lực, nhà
nghiên cứu chính trị Richard Neustadt đã mô tả quyền lực của tổng thống Hoa kỳ là " không phải là
quyền lực ra lệnh mà là quyền lực thuyết phục."
Hiến pháp không thể qui định cụ thể mọi Kiểm tra và Cân bằng đối với chính phủ liên bang. Một số được rút ra trong quá trình thực hiện và qua các
tiền lệ. Có thể coi một phát hiện quan trọng nhất cho Kiểm tra và Cân bằng là
học thuyết tái kiểm tư pháp (judicial review), được rút ra trong một vụ án năm 1803, học thuyết
này cho phép tòa án tối cao Hoa kỳ có quyền tuyên bố các quyết định trái với hiến pháp quốc hội.
Sự phân chia quyền lực
trong hệ thống Hoa kỳ thường không đơn giản và nhanh chóng, nhưng nó mang lại một sự an toàn quan
trọng để chống lại khả năng lạm dụng quyền lực của
chính phủ - một vấn đề mà mọi nền dân chủ phải đối mặt.
Một trong các quyết định quan trọng nhất của một nền dân chủ là
phương pháp bầu ra các vị lãnh đạo và các vị đại diện cho nền dân chủ đó. Nói chung, có hai
cách lựa chọn. Một cách theo hệ thống nghị viện trong đó đảng chiếm đa số trong
cơ quan lập pháp hoặc liên minh cácđảng sẽ thành lập chính phủ, đứng đầu là thủ tướng. Hệ thống chính phủ nghị
viện đầu tiên được thực hiện ở Anh, ngày nay được áp dụng tại phần lớn các nước châu Âu, vùng Caribê, Canađa,
Ấn độ và nhiều nước tại châu Phi, châu Á ( thường là thuộc địa cũ của Anh). Một cách thường gặp khác là bầu
trực tiếp tổng thống độc lập với cơ quan lập
pháp. Hệ thống tổng thống ngày nay được áp dụng rất nhiều tại châu Mỹ-Latinh, Philipin, Pháp, Ba lan
và Hoa kỳ.
Điểm khác biệt chính
giữa hai hệ thống nghị viện và tổng thống là quan hệ giữa cơ quan lập pháp và
hành pháp. Trong hệ thống nghị viện, lập pháp và hành pháp nói chung là một và
cùng như nhau, thủ tướng và các thành viên của chính phủ đều lấy từ nghị viện. Nhiệm kỳ của chính phủ
được qui định rõ ràng ví dụ 4 hoặc 5 năm, trừ khi thủ tướng bị mất quyền đa số
tại nghị viện. Khi đó chính phủ phải giải tán và tổ chức bầu cử lại, hoặc người đứng đầu nhà nước là tổng thống hoặc quốc vương
lập hiến ( có vai trò lãnh đạo tượng trưng) cho
phép chủ tịch một đảng khác đứng ra lập chính phủ mới. Sự phân chia quyền lực
theo kiểu hệ thống tổng thống Hoa kỳ là không có vì nghị viện là định chế lãnh đạo tối cao. Đổi lại, để đảm bảo có sự kiểm tra và cân bằng đối với quyền lực của chính phủ, hệ thống nghị
viện phụ thuộc cực lớn vào cácđộng lực chính trị trong nội tại của nghị viện.
Điều đó thường tạo nên dạng đảng đối lập có tổ chức
đơn độc như “cái bóng” của chính phủ hoặc dạng cạnh tranh giữa rất nhiều các
đảng đối lập.
Trong hệ thống tổng
thống thì cả hai vị trí đứng đầu nhà nước và
chính phủ đều thuộc văn phòng tổng
thống. Tổng thống được bầu trực tiếp từ
dân chúng cho một nhiệm kỳ xác định. Các thành viên của quốc hội cũng được bầu tương tự. Như một yếu tố phân quyền,
các thành viên của văn phòng tổng thống thường không phải là các đại biểu quốc hội. Tổng thống thường chỉ bị phế
truất trước nhiệm kỳ khi phạm những tội nghiêm trọng hoặc có những hành động nguy hiểm đối với nhà nước. Phần đa số trong cơ quan lập pháp ủng hộ cho đảng của
tổng thống có thể tạo thuận lợi cho việc chấp thuận các chương trình chính trị,
nhưng không như các thủ tướng, các tổng thống không phụ thuộc vào các đa số như thế để được tồn tại hay không.
Một quyết định quan trọng khác của nền dân chủ là tiến
hành bầu cử như thế nào. Chúng ta lại có 02 cách lựa chọn: bầu cử theo kiểu đa số tương đối hoặc bầu cử theo đại diện theo
tỷ lệ.
Bầu cử theo đa số tương đối, đôi khi được hiểu như kiểu “
người thắng được tất”, có nghĩa là ứng cử viên chiếm đa số phiếu trong một khu vực xác định sẽ là
người chiến thắng cho dù là đa số tương đối ( dưới
50% nhưng lớn hơn các đối thủ khác) hay là đa số tuyệt đối ( trên 50%). Tổng thống cũng được bầu theo cách đó, nhưng ở cấp độ quốc gia.
Một số hệ thống cho phép bầu lại ( đua lại) giữa hai ứng cử viên lớn nhất nếu
không có ai chiếm được đa số tuyệt đối
trong vòng đầu. Bầu cử theo đa số
có xu hướng phù hợp khi có hai đảng chính trị lớn có
khả năng chi phối toàn bộ tình hình chính trị.
Ngược lại, các cử tri
trong hệ thống bầu cử theo kiểu đại diện theo tỷ lệ, như
thường thấy ở các nước châu Âu, tính phiếu bầu cho các đảng chứ không cho các
cử tri cá nhân. Đại diện của các đảng trong cơ quan lập pháp phụ thuộc vào số
phần trăm hay tỷ lệ số phiếu đảng đó thu được trong bầu cử. Trong hệ thống nghị
viện, người đứng đầu đảng chiếm đa số tuyệt đối sẽ trở thành thủ tướng và có
quyền lựa chọn các thành viên cho chính phủ từ nghị viện. Nếu không có đảng nào chiếm đa số tuyệt đối, các đảng phải cùng nhau thương
lượng để thành lập một liên minh các đảng cầm quyền. Bầu cử theo kiểu đại diện theo
tỷ lệ có xu hướng phù hợp với tình hình có nhiều đảng, thường các đảng phải tự tìm cách thương
lượng với nhau để có được vị trí trong
chính phủ liên minh, cho dù các đảng đều có một tỷ lệ
tương đối nhỏ cử tri trung thành.
Một trong những tính
chất cơ bản của hệ thống nghị viện (hệ thống ngày nay đã trở thành đa số của các nền dân chủ) là sự phản ứng nhanh và linh hoạt. Các
chính phủ nghị viện, đặc biệt là các chính
phủ được bầu theo đại diện theo tỷ lệ, có xu hướng
tiến tới hệ thống đa đảng trong đó cả những nhóm chính trị tương đối nhỏ cũng
được hiện diện trong cơ quan lập pháp. Như thế, kể cả các nhóm rất thiểu số vẫn
có thể tham gia vào quá trình quyết định chính trị ở mức độ cao nhất của chính phủ. Tính đa dạng này
tạo điều kiện cho các đảng đối thoại và thỏa hiệp
khi phải cùng nhau thành lập liên minh cầm quyền. Do đó khi liên minh sụp đổ hay đảng mất quyền, thủ tướng từ chức, phải
thành lập chính phủ mới hoặc cả khi tiến hành bầu cử lại vẫn không có sự khủng
hoảng đe dọa hệ thống dân chủ.
Điểm yếu chính của hệ
thống nghị viện nằm ở mặt tối của sự linh hoạt và sự phân chia quyền lực: đó là tính không ổn định. Các liên minh đa đảng có thể mong manh và sụp đổ ngay khi có dấu hiệu đầu tiên của khủng hoảng
chính trị và dẫn tới chính phủ chỉ tồn tại được trong thời gian khá ngắn. Chính phủ có thể cũng phải viện tới
sự khoan dung của các đảng cực đoan khi các đảng đó ép chính phủ phải đưa ra
các chính sách đặc biệt bằng cách đe dọa rút khỏi liên minh cầm quyền hoặc buộc
chính phủ từ chức. Hơn nữa, thủ tướng chỉ là người đứng đầu một đảng chứ không phải là người có
quyền do nhân dân trực tiếp bầu ra.
Một vấn đề nữa là thiếu sự kiểm tra chính thức đối với quyền tối cao của nghị viện. Ví dụ, một
đảng chính trị với đa số đủ lớn trong nghị viện có thể phê chuẩn một chương
trình chính trị xa vời, phi dân chủ mà không có các giới hạn cần thiết đối với các hành động đó, khi đó sẽ tạo ra một viễn cảnh bất công
của sự đa số.
Đối với hệ thống tổng
thống, các tính chất cơ bản là trách nhiệm trực tiếp, tính liên tục và sức
mạnh. Các tổng thống do nhân dân bầu cho một nhiệm kỳ nhất định có thể khẳng định quyền lực của mình từ bầu
cử trực tiếp mang lại, cho dù vị trí đảng của tổng thống có vị trí nào trong nghị viện. Bằng cách tạo
ra sự phân chia nhưng về lý thuyết thường các nhóm là ngang nhau trong chính
phủ, hệ thống tổng thống tìm cách làm cho các định chế lập pháp và hành pháp mạnh mẽ, mỗi định chế đều có khả năng yêu cầu nhân dân cho
quyền và mỗi định chế đều có khả năng
kiểm tra và cân bằng các định chế khác. Những
người lo sợ khả năng bất công trong hành pháp sẽ nhờ đến vai trò của quốc hội, những người lo lắng sự
lạm dụng đa số nhất thời trong cơ
quan lập pháp sẽ viện tới quyền của tổng thống.
Điểm yếu của việc bầu
riêng biệt cơ quan lập pháp và tổng thống là khả năng bế tắc khi cần quyết
định. Tổng thống có thể không đạt được biếu quyết của quốc hội cho các chương
trìnhđề xuất, nhưng tổng thống cũng có thể tránh cho quốc hội phải thay thế các
chương trình lập pháp bằng cách sử dụng quyền phủ quyết của mình.
Đương nhiên do được bầu trực tiếp, các tổng thống có thể có
nhiều quyền lực hơn các thủ tướng. Tuy nhiên, tổng thống buộc phải đấu tranh với cơ quan lập pháp cho dù cơ quan
lập pháp có bị khống chế bởi đảng đối lập hay không
vì cơ quan lập pháp được bầu độc lập với
tổng thống. Do đó, vấn đề kỷ luật đảng cũng không mạnh như hệ thống nghị viện,
ví du: tổng thống không thể khai trừ hay kỷ luật các thành viên của đảng có ý chống đối như thủ tướng thường làm.
Trong khi thủ tướng, với lợi thế đa số chắc chắn trong nghị viện, có thể đảm bảo được chấp thuận
cho các chương trình lập pháp đề xuất. Ngược lại, tổng
thống thường phải thương lượng kéo dài với cơ quan lập pháp với những nghi ngại
về các đặc quyền của họ để đảm
bảo đạt được sự chấp thuận cho các đề xuất của mình.
Hệ thống nào đáp ứng tốt nhất cho các yêu cầu của nền dân chủ
lập hiến: kiểu nghị viện hay kiểu tổng thống? Câu trả lời thuộc về cuộc tranh
luận đang còn tiếp diễn giữa các nhà nghiên cứu chính
trị và các chính trị gia, một phần do mỗi hệ thống đều có những điểm mạnh và yếu riêng của nó. Tuy
nhiên, chúng ta nên ghi nhận là cả hai hệ thống đó đều phù hợp với nền dân chủ lập hiến, mặc dù
không có hệ thống nào đảm bảo cho sự thành
công.
Các công dân không bắt
buộc phải tham gia vào các hoạt động chính trị và họ
cũng được tự do thể hiện sự không hài lòng bằng cách
không tham gia vào các hoạt động chính trị. Nhưng
nếu không có sự tham gia tích cực của công dân thì nền dân chủ sẽ trở nên yếu
ớt. Công dân trong các xã hội dân chủ có cơ hội được tham gia vào rất nhiều các tổ chức, các
hiệp hội tư nhân, các tổ chức tình nguyện. Phần lớn các tổ chức đó hoạt động liên quan tới các chính sách công
cộng. Và chỉ có một số là do chính phủ tài trợ và kiểm soát. Một quyền cơ bản để tạo nên dân chủ là mọi cá nhân có quyền tự do
hội họp, tự do tổ chức và thành lập các hội dưới nhiều dạng khác nhau của tổ
chức phi chính phủ. Khi những người có cùng lợi ích tập hợp nhau lại, khi đó tiếng nói của họ sẽ được lắng nghe và cơ hội để gây ảnh hưởng đốùi với các thảo luận chính
trị sẽ được tăng lên. Như
Alexis de Tocqueville, nhà nghiên cứu chính trị nổi tiếng thế kỷ 19 đã viết :" Không có một đất nước nào mà sự đòi hỏi cấp thiết phải có các hiệp hội để chống lại sự chuyên chế bè cánh và sự độc đoán lãnh đạo như một đất nước được xây dựng theo kiểu dân chủ.”
Các tổ chức, hiệp hội
trong các xã hội dân chủ có số lượng rất lớn và được phân loại theo nhiều cách. Các tổ chức mà
chức năng chính của nó là gây áp lực đối với chính phủ về một vấn đề đặc biệt nào đó thì được xếp vào các nhóm hoạt động vì lợi ích hay các nhóm vận động hậu trường ( lobby). Các nhóm vì lợi ích tư
nhân như các hiệp hội kinh doanh, các tổ chức nghề nghiệp hoặc liên đoàn lao động, thường có các lợi ích kinh tế trong các chính sách mà họ ủng
hộ, mặc dù cũng có thể họ đề cập tới lợi ích công
cộng trong các vấn đề khá xa so với lĩnh vực chuyên môn của họ.
Các tổ chức được gọi là vì lợi ích công cộng như các tổ chức
phúc lợi xã hội hoặc vì môi trường, họ luôn tìm cách làm cho các nhận thức của
họ trở thành các lợi ích tập thể hoặc của xã hội. Điều này không làm cho các tổ chức vì lợi ích
công cộng trở nên tốt hơn hay đạo đức hơn các tổ chức
vì lợi ích tư nhân. Hơn nữa, lợi ích của bản thân cá nhân bao giờ cũng được đặt ngay tiếp theo lợi ích công cộng.
Cả hai dạng tổ chức vì
lợi ích này đều hoạt động rất mạnh
tại các xã hội dân chủ. Cả hai đều rất quan tâm tới dư
luận, cùng cố gắng để mở rộng sự ủng hộ như
tìm cách giáo dục công chúng vàđồng thời ảnh hưởng tới chính sách của chính phủ
cùng một lúc.
Các nhóm vì lợi ích đóng vai trò như một sức mạnh trung gian giữa
các cá nhân đơn độc và chính phủ có
qui mô lớn và cách xa dân chúng. Chính thông qua các hoạt động của các tổ chức đó và thông qua các cuộc
tranh luận công khai, cởi mở, các tranh cãi gay gắt, các quyết định thỏa hiệp và các nhất trí đồng thuận giữa các bên mà xã hội dân chủ mới đưa ra được các quyết định liên quan tới đời sống của các thành viên trong xã hội đó.
Trong các nền dân chủ
hiện đại, hoạt động bỏ phiếu bầu các công chức nhà
nước là một dạng hoạt động thường thấy nhất và
cũng là cơ bản nhất nói lên sự tham gia của công dân vào việc tổ chức xã hội.
Khả năng thực hiện các cuộc bầu cử tự do và công bằng là vấn đề cốt lõi để một xã hội được gọi là dân chủ.
Động cơ bỏ phiếu của cử
tri cũng nhiều và đa dạng như các tổ chức
và quyền lợi mà các tổ chức đó đại diện trong xã hội
dân chủ. Đương nhiên là các cử
tri sẽ bỏ phiếu cho các ứng cử viên đại diện cho quyền lợi của họ, nhưng cũng có nhiều yếu tố khác ảnh
hưởng tới sự lựa chọn đó. Ví dụ sự liên quan tới đảng chính trị: các cử tri có cảm tình mạnh mẽ
với một đảng chính trị nào đó sẽ có nhiều khả năng bỏ phiếu cho đảng đó hơn
các cử tri có tính chất độc lập và không thuộc đảng phái nào. Trong các hệ thống bầu cử theo đại diện tỷ lệ , các cử tri chỉ có thể bỏ phiếu
cho một đảng nào đó chứ không bỏ cho các
ứng cử viên cá nhân.
Các nhà khoa học chính
trị đã xác định được rất nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng tới sự quyết định của
cử tri và tổng số lá phiếu bầu. Ví dụ, ở các quốc gia theo hệ thống bầu cử đại diện theo tỷ lệ, khi mà mỗi lá phiếu đều được tính vào tỷ lệ đại diện trong cơ quan lập pháp, luôn có tổng số
lá phiếu cao hơn các nước theo hệ thống đa số tuyết đối hoặc đa số tương đối.
Tình trạng kinh tế, xã hội, sự dễ dàng đăng ký bầu cử, sức mạnh của hệ thống đảng, hình ảnh ứng cử viên
trong công chúng, khoảng cách giữa các cuộc bầu cử - tất cả các yếu tố này đều tác động tới số lượng và tần số đi bầu của các cử tri. Trong các cuộc bầu cử dân
chủ, vấn đề chính không phải là xác định được ứng cử viên nào kêu gọi được nhiều ủng hộ nhất từ công chúng mà là xác định được ứng cử viên nào có khả năng làm cho
những người ủng hộ mình chuyển các mong muốn của họ thành lá phiếu một cách
hiệu quả nhất. Sự thờ ơ của công chúng vẫn là một lo lắng trong bầu cử dân chủ,
ở chỗ là những người nắm quyền lãnh đạo sẽ được bầu bởi một số lượng cử tri nhỏ hơn tổng số lượng cử
tri hợp pháp, chứ không phải là lo ngại không đủ người cho các vị trí lãnh đạo.
Các đảng chính trị tuyển chọn, chỉ định ứng cử viên
và tổ chức các chiến dịch bầu ra các lãnhđạo nhà nước. Nếu là đảng chiếm đa số, họ sẽ xây dựng các chương
trình chính sách cho chính phủ, còn nếu là phía đối lập họ sẽ đưa ra các phê phán, chỉ trích và đề nghị các giải pháp khác. Các đảng huy động
ủng hộ từ các tổ chức vì lợi ích cho các chính sách chung; giáo dục công chúng
về các vấn đề công cộng; xây dựng
các nguyên tắc và cấu trúc cho các tranh luận chính trị. Trong một số hệ thống,
ý thức hệ có thể đóng một vai trò quan
trọng khi tuyển chọn và làđộng cơ thúc đẩy các đảng viên; còn ở những hệ thống
khác, các quan tâm về kinh tế hoặc các quan điểm về xã hội lại có thể đóng vai trò quan trọng hơn tư tưởng chính trị ( ý thức hệ).
Cách thức tổ chức và
hoạt động của các đảng rất khác nhau. Có hai kiểu đặc
trưng. Một thái cực theo hệ thống nghị viện đa đảng tại châu Âu, các đảng chính
trị có thể được tổ chức rất chặt chẽ và hoạt động gần như chỉ do những đảng viên chuyên nghiệp trọn thời gian (
full-time professionnals). Một thái cực khác là ở Hoa kỳ, có hai đảng chính là đảng Cộng hòa và đảng Dân chủ, là các đảng được tổ chức phi tập trung, hoạt động rộng
khắp ở cả quốc hội và các bang. Cứ 04 năm lại thay đổi khi các tổ chức của đảng
Cộng hòa và đảng Dân chủ hợp lại với
nhau để tổ chức các chiến dịch cho bầu cử tổng thống, với sự giúp đỡ phần lớn
của những người tình nguyện.
Các đảng chính trị cũng thay đổi tùy theo xã hội mà
nó hoạt động. Các chiến dịch bầu
cử thường được tổ chức rất công phu và tốn kém thời gian và đôi khi kỳ cục. Nhưng chức năng của các chiến
dịch lại hết sức nghiêm túc: đảm bảo cho các công dân
của xã hội dân chủ có thể lựa chọn các vị lãnh đạo và tự mình xác định cho số phận của riêng họ theo một cách thức
hòa bình và công bằng.
Trong xã hội dân chủ các
công dân có quyền tập hợp nhau một cách ôn hòa và phản đối các chính sách của chính phủ hoặc các tổ
chức hành động bằng các hình thức
biểu tình, tuần hành, gửi kháng nghị, tẩy chay, bãi công và nhiều hình thức
hành động trực tiếp khác.
Hành động trực tiếp được phép cho tất cả mọi người
trong xã hội dân chủ, nhưng thường được sử dụng bởi các tổ chức đối lập, các nhóm thiểu số hoặc nhóm
bị thiệt thòi về quyền lợi khi những nhóm đó cảm thấy không còn các phương tiện nào khác để gây ảnh hưởng tới chính sách của chính phủ.
Các loại phản đối như thế luôn luôn là một phần tất yếu của xã hội dân chủ.
Ngày nay, các hình thức phản đối phi bạo lực thường
được tổ chức để lôi kéo sự chú ý của giới truyền thông về nhiều vấn đề rộng lớn
từ ô nhiễm môi trường tới vũ khí hạt nhân, các chính sách đối ngoại, các vấn đề
phân biệt chủng tộc và màu da. Một dạng hành động trực tiếp đặc biệt khác là quyền của các công đoàn lao động tổ chức các cuộc bãi công phản đối những người sử dụng lao động khi các mâu
thuẫn không giải quyết được trên bàn đàm phán.
Các phản đối là một cơ sở để đánh giá một nền dân chủ. Các lý tưởng của sự
tự do thể hiện và tham gia tổ chức xã hội của công dân sẽ dễ dàng đạt được khi mọi người đều giữ được cách cư xử
lịch sự và cùng thỏa thuận về các vấn đề cơ bản. Nhưng khi những người phản đối và bị phản đối không thống nhất được trên các vấn đề cơ bản, thì sự bất đồng có thể trở thành sự cáu giận và manh động. Lúc đó một trong những vấn đề cần phải Cân
bằng là vừa bảo vệ quyền tự do ngôn luận, quyền hội họp của công dân, vừa duy
trì được trật tự của xã hội và tránh mọi ý đồ hăm dọa hay bạo lực. Nếu triệt tiêu các phản đối ôn hòa với lý do đảm bảo trật tự xã hội sẽ tạo nên sự dồn nén, ức
chế. Ngược lại, nếu để các phản đối bằng bạo
lực xảy ra một cách không kiểm soát thì lại dẫn tới tình trạng hỗn loạn, vô
chính phủ.
Không có một công thức
kỳ diệu nào để đạt được sự Cân bằng,
điều đó phụ thuộc vào cam kết của đa số người dân là cần phải duy trì các định chế của dân chủ và các đòi hỏi của quyền cá nhân. Các xã hội dân chủ có
khả năng chấp nhận mọi bất đồng sâu sắc nhất giữa các công dân chỉ trừ một bất
đồng đó là tính hợp pháp của bản thân nền dân chủ.
Lãnh đạo là sự trao đổi thông tin. Do các xã hội hiện đại đã phát triển rất lớn về kích thước và tính
phức tạp, lĩnh vực truyền thông và các thảo luận công cộng đang ngày càng bị chi phối bởi các phương tiện
thông tin: đài phát thanh, ti-vi,
báo, tạp chí, sách và cả các cơ sở dữ liệu tin học.
Trong xã hội dân chủ có
rất nhiều phương tiện thông tin giống nhau, nhưng các chức năng của chúng đặc
biệt khác nhau. Một trong số những chức năng đó là thông tin và giáo dục. Để có được quyết định khôn ngoan cho các chính
sách công cộng, công chúng cần phải có các thông tin chính xác, kịp thời và
không bị thiên lệch. Do có nhiều ý kiến khác nhau, công chúng cũng cần phải được tiếp cận với tất cả các quan điểm. Đây là điểm đặc biệt quan trọng trong các chiến dịch
bầu cử, khi chỉ có một số ít cử tri có được cơ hội gặp ứng cử viên và số được nói chuyện với ứng cử viên còn ít hơn nữa,
do đó các cử tri buộc phải trông cậy vào báo chí và
ti-vi để hiểu các vấn đề và biết được đặc điểm, cũng như các thông số cần thiết
của các vị trí khác nhau của các ứng cử viên và đảng của họ.
Chức năng thứ hai của
các phương tiện thông tin là giữ vai trò kiểm soát chính phủ và các định chế quyền lực khác trong xã hội. Do giữ một
vai trò độc lập và khách quan,
dĩ nhiên không tuyệt đối, các phương tiện
thông tin có thể lật tẩy sự thật đằng sau các tuyên bố của chính phủ và buộc
các công chức nhà nước phải có trách nhiệm với các hành động của họ.
Nếu họ muốn, các phương
tiện thông tin cũng có thể có vai trò tích cực hơn nữa trong các cuộc tranh
luận công cộng. Bằng các bài xã luận hoặc các phóng sự điều tra, phương tiện thông tin có thể huy động
một chiến dịch cho các chính sách cụ thể hoặc cho các cải cách mà họ thấy cần được thực hiện. Các phương tiện thông tin cũng
có thể đóng vai trò như một diễn đàn cho các tổ chức và các cá nhân thể hiện ý kiến, quan điểm bằng cách gửi thư cho ban biên tập vàđăng
các bài báo với các quan điểm khác nhau.
Các bình luận viên lại
mang tới cho các phương tiện thông tin một vai trò ngày càng quan trọng:
"tạo nên các chương trình nghị sự ". Do không thể đề cập mọi vấn đề, các phương tiện thông tin (
PTTT) buộc phải lựa chọn vấn đề nào cần đề cập, vấn đề nào cần bỏ qua. Nghĩa là họ cần phải xác định đâu là tin, đâu không phải là tin. Do đó, các quyết định về thông tin đó sẽ ảnh hưởng
tới nhận thức của công chúng đâu là vấn đề quan trọng nhất. Tuy nhiên, không giống như các nước mà hệ
thống thông tin bị kiểm soát bởi chính phủ, trong một xã hội dân chủ, các PTTT
không đơn giản chỉ đóng vai trò cổ động, lôi cuốn hoặc tảng lờ cố ý, vì các đối thủ khác hoặc ngay cả chính phủ cũng được tự
do lôi kéo sự chú ý của công chúng cho các vấn đề quan trọng của họ.
Đa số cho rằng các PTTT
không phải luôn thực hiện các chức năng đó một cách có trách nhiệm. Các phóng
viên báo chí và truyền hình có thể mong muốn đạt được tiêu chuẩn khách quan trong công việc của họ, nhưng các
tin tức không thể tránh được sự ảnh hưởng bởi sự
nhạy cảm và thiên lệch của chính các cá nhân đó hoặc của cơ quan báo chí mà họ cộng tác. Họ có thể là những
người dễ xúc động, hời hợt, chủ quan,
không chính xác, xúc phạm và dễ khiêu khích. Tuy nhiên giải pháp cho vấn đề này không phải là ban hành luật pháp để qui trách nhiệm một cách tùy ý hoặc quản lý
chặt chẽ các nhà báo mà phải mở rộng sự tranh luận và trao đổi của công chúng để công chúng có thể sàng lọc
tốt hơn trong bạt ngàn thông tin và các từ ngữ hùng biện của báo chí để tìm thấy cho mình các yếu tố cơ bản của sự
thật. Oliver Wendell Holmes luật sư nổi tiếng của Tòa tối cao Hoa kỳ đã phát biểu vào năm 1919 như sau:” Thử nghiệm
tốt nhất của chân lý là sức mạnh của tư duy làm cho nó được chấp nhận trong sự cạnh tranh của thị
trường.”
Thể chế dân chủ không áp đặt bất kỳ một học thuyết kinh tế nào. Các chính
phủ dân chủ chấp nhận cả học thuyết của các nhà xã hội chủ nghĩa và những người
theo thị trường tự do. Thực tế, trong các xã hội dân chủ hiện đại có rất nhiều tranh luận, bàn cãi đề cập tới vai trò cụ thể của chính phủ về kinh
tế. Tuy nhiên, cũng phải nói rằng những người chủ trương thể chế dân chủ thường
nhìn nhận vấn đề tự do kinh tế như một
yếu tố căn bản của dân chủ. Điều này không loại trừ các vấn đề kinh tế có thể trở thành phương diện để phân chia và xác định quyền lực chính trị của phái “tả , hữu” như
chúng ta đang thấy. Ví dụ, các nhà dân chủ xã hội nhấn mạnh vào việc đòi hỏi quyền bình đẳng và phúc lợi xã hội phải là vấn đề then chốt trong các chính sách kinh tế của
chính phủ. Trước đây, chính đòi hỏi đó đã mang lại cho chính phủ quyền sở hữu các bộ phận quan trọng
của nền kinh tế quốc gia như viễn thông, giao thông và một số nghành công
nghiệp nặng. Các nhà dân chủ xã hội cũng kêu gọi chính phủ phải quan tâm đến các vấn đề y tế, thất nghiệp và các phúc lợi
xã hội khác. Ngược lại, các đảng bảo thủ và ôn hòa
thường nhấn mạnh nhiều hơn tới nền kinh tế thị trường tự do, không bị can thiệp
hoặc kiểm soát bởi chính phủ như là một phương tiện hiệu quả nhất để đạt được tăng trưởng kinh tế, phát triển công
nghệ và mở rộng giàu mạnh. Tuy nhiên, trên thực tế, tất cả mọi cá nhân và tổ
chức tham gia trong các tranh luận về kinh tế thường dễ thống nhất với nhau hơn
trong các cuộc tranh luận về chính trị. Ví dụ, cả hai phe tả và hữu đều cùng thừa nhận vai trò quan trọng của các
phong trào lao động tự do, độc lập với
chính phủ. Những người lao động trong một xã hội tự do có quyền thành lập hoặc
tham gia vào các tổ chức đại diện cho quyền lợi
của họ để thương lượng với những người sử dụng lao động về vấn đề tiền lương,
sức khỏe, chế độ hưu trí, điều kiện làm việc và các vấn đề bất hòa.
Không có nhà nước dân
chủ hiện đại nào mà có nền kinh
tế hoàn toàn thuộc sở hữu của nhà nước hoặc hoàn toàn tự do. Tất cả đều là sự kết hợp giữa các xí nghiệp tư nhân và
các cơ sở của nhà nước. Hoạt động của nền kinh tế dân
chủ chủ yếu dựa trên các qui luật của thị trường tự do: giá cả không do nhà
nước qui định mà do sự quyết định độc lập trong mối quan hệ tương tác giữa
người tiêu dùng và nhà sản xuất.
Các đảng chính trị cánh tả, thường theo chủ nghĩa
dân chủ xã hội có định hướng, thừa nhận là
thị trường tự do hoạt động đúng theo các
nguyên tắc cung-cầu sẽ là độc lực thiết yếu cho sự
phát triển kinh tế và giàu mạnh. Tương tự như thế, các đảng cánh hữu ôn hòa, thường phản đối sự can thiệp của nhà nước hay sở hữu của nhà
nước trong khu vực sản xuất, chấp nhận trách nhiệm của chính phủ trong việc điều chỉnh một số lĩnh vực kinh tế: thất nghiệp,
y tế, các phúc lợi xã hội, sử dụng chính sách thuế để phát triển kinh tế. Do đó, các nền kinh tế
theo thể chế dân chủ mặc dù đa dạng về chi tiết
nhưng đều giống nhau về các đặc tính cơ bản.
Gần đây, sự sụp đổ của một loạt các nền kinh tế kế
hoạch hóa trung ương trên khắp thế giới càng nhấn mạnh vai trò quan trọng của
các thị trường tự do. Điều đó cho thấy dù là
trong vấnđề kinh tế hay chính trị thì tự do vẫn là một yếu tố không thể thiếu.
Như Morris Abraham, cựuđại sứ tại liên hợp quốc về vấn đề nhân quyền và cựu chủ tịch ủy ban quan sát
của LHQ tại Giơ-ne-vơ đã phát biểu:" Chỉ
riêng tự do không thể đảm bảo cho thành công
về kinh tế, nhưng sự cưỡng ép chắc chắn sẽ mang lại thất bại". Thậm chí điều đó đúng ngay cả với một số ít chế độ độc
tài, họ đã tiến được các bước dài về kinh tế khi họ mang lại tự
do cho lĩnh vực kinh tế nhưng lại từ chối trong lĩnh vực chính trị. Tuy nhiên,
các thành công đó của họ thường không
đảm bảo cho sự mạnh mẽ của chế độ về lâu dài mà nó góp phần làm tăng thêm các đòi hỏi của dân chúng về tự do chính trị phải
tương xứng với tự do về kinh tế như trường hợp của Chilê hayĐài loan. Các nền
dân chủ vẫn sẽ tiếp tục các tranh luận về kinh tế một cách gay gắt như đã có trong qua khứ. Nhưng càng ngày các cuộc
tranh luận đó không chỉ nhấn mạnh
vào các nền kinh tế do nhà nước chỉ đạo đã bị thất bại mà còn đảm bảo sao cho các lợi ích của thị trường tự do đến được với mọi
người trong một thế giới ngày càng phụ thuộc lẫn nhau.
Các nền dân chủ tạo ra
rất nhiều các trách nhiệm mang tính nhân bản, như người dân được hưởng may mắn về khả năng tự lãnh đạo mình theo cách tự do và công bằng, hoặc mọi
xã hội dân chủ đều chứa đựng sự đa dạng
vô tận về các sở thích, và các cá nhân - những người xứngđáng được hưởng quyền
lợi là lời nói của họ được người khác lắng
nghe và quan điểm của họ được người
khác tôn trọng. Do đó, một điểm hết sức hiển nhiên của mọi nền dân chủ lành
mạnh là sự ồn ào và sôi nổi.
Cựu tổng thống Hoa kỳ
George Bush đã mô tả hệ thống rộng
lớn của các tổ chức tình nguyện tại Hoa kỳ như " hàng ngàn ánh đèn" có ý nghĩa ẩn dụ như sự đa dạng hay đa nguyên của các xã hội dân chủ ở
khắp nơi. Các tiếng nói trong xã hội dân chủ bao gồm tiếng nói của chính phủ,
của những người ủng hộ đảng cầm quyền và chắc
chắn có tiếng nói của cả các bên đối lập. Nhưng các tiếng nói đó được tăng cường thêm bởi các tiếng
nói của các liên đoàn lao động, các tổ chức vì lợi ích, các hiệp hội cộng đồng, các phương tiện thông tin, các nhà nghiên
cứu và phê bình, các lãnh tụ tôn giáo và nhà văn, các doanh nghiệp nhỏ cho tới
các tập đoàn kinh tế lớn, các nhà thờ và trường học.
Tất cả các tổ chức đó đều được tự do phát biểu và tham dự vào hoạt động chính trị dân chủ ở bất cứ mức độ nào, địa phương hay trung ương. Theo cách đó, các
hoạt động chính trị dân chủ sẽ là một tấm lọc cho mọi đòi hỏi, yêu cầu của công chúng đa dạng để trở thành các chính sách chung cho xã
hội. Như cựu tổng thống Hoa kỳ Jimmy Carter một lần đã phát biểu:" Kinh nghiệm của dân chủ cũng
như kinh nghiệm của chính bản thân cuộc sống - luôn thay đổi, vô tận về sự đa dạng, đôi khi hỗn loạn và điều giá trị hơn cả là được thử thách qua những khó khăn”
Tự bản thân dân chủ
không đảm
bảo cho bất kỳ điều gì. Dân chủ mang lại cơ hội cho thành công cũng như rủi ro
cho thất bại. Trong bản Tuyên ngôn mạnh mẽ và sắc sảo của Thomas Jefferson thì
lời hứa của dân chủ là " Cuộc sống, Tự do và theo đuổi Hạnh phúc.”
Dân chủ vừa là lời hứa
mà cũng là thách thức. Lời hứa là con người được tự do, cùng làm việc với nhau, có thể tự
quản lý mình để
đạt được khát vọng về tự do cá nhân, cơ hội kinh tế và công lý cho xã hội. Đó cũng là thách thức vì thành công của thể chế
dân chủ chỉ dựa trên chính đôi vai của những công dân trong thể chế đó chứ không ai khác.
Chính phủ của dân và do
dân có nghĩa là các công dân của xã hội dân chủ cùng chia sẻ với nhau các thành
quả cũng như các khó khăn. Do lĩnh trách nhiệm tự quản lý mình cho nên mỗi thế
hệ đều
tìm cách duy trì những thành quả vất vả mới có được về tự do cá nhân, quyền con người và nguyên
tắc sống theo luật pháp cho thế hệ kế tiếp. Mỗi xã hội và mỗi thế hệ đều phải biết cách thực hiện dân chủ một cách
sáng tạo: áp dụng các nguyên tắc trong quá khứ vào tình hình thực tế đang đổi thay của thời đại mới và xã hội mới.
Nhà thơ quá cố Josef
Brodsky, gốc Nga, đoạt
giải Nobel đã từng viết:" Con người tự do sẽ chẳng trách cứ ai khi thất
bại" và điều
này cũng giống như các công dân trong một thể chế dân chủ, những người tự nhận
trách nhiệm đối
với số phận xã hội mà họ đã
tự chọn để
sống.
Và cuối cùng chúng ta sẽ
có được
chính phủ mà chúng ta xứng đáng phải có.
1. Pericles: vua thời A- ten cổ đại sống vào khoảng 495-429 trước công nguyên,
nổi tiếng là người quyền lực, sống cách biệt với dân chúng nhưng với tài hùng
biện, sự thông thái, chính trực và lòng yêu tổ quốc đã được dân chúng ngưỡng mộ, ủng hộ. Về mặt chính trị, Pericles chủ
trương làm cho dân chúng tham gia tích cực vào sự quản lý, lãnhđạo đất nước.
Các công dân khi phục vụ nhà nước sẽ được trả công và các thành viên của hội đồng quản lý, lãnh đạo được lựa chọn từ nhiều người trong toàn bộ
cộng đồng
A-ten. Dưới thời lãnh đạo
của Pericles ( trong 15 năm ) A-ten đã trở thành một trung tâm văn hóa, nghệ
thuật rực rỡ vào thời đó.
2. Vaclav Havel: sinh ngày 05/10/1936 tại
Pra-ha, là nhà văn, kịch tác gia, cựu tổng thống cộng hòa Tiệp khắc cũ và tổng
thống đầu
tiên của cộng hòa Séc và hơn hết là người đấu tranh cho dân chủ và chủ nghĩa nhân văn tại
nước cộng hòa Tiệp Khắc cũ. Thuở nhỏ gặp rất nhiều ngáng trở trong việc học
hành do xuất thân từ một gia đình kinh doanh ở Pra-ha. Tuy nhiên với nghị lực và niềm tin vào
tương lai, ông đã
tham gia vào hoạt động
văn học, xã hội từ rất sớm. Các kịch bản của ông đã đóng vai trò chính trong phong trào văn hóa, dân chủ gọi là Mùa
xuân Pra-ha năm 1968, đề cao văn hóa Séc và xã hội Séc.
Sau đây là một số mốc quan trọng:
+ 1975: gửi thư ngỏ cho chủ tịch cộng hòa Tiệp khắc chỉ
ra các điều
kiện thiết yếu cho xã hội và trách nhiệm của chế độ cầm quyền.
+ 1977: Đồng sáng lập của nhóm 03 người đại diện đầu
tiên cho sáng kiến hiến chương 77, trong đó có Ủy ban bảo vệ những người bị khởi tố trái
pháp luật.
+ 1978: bị cầm tù khoảng 05 năm, trong thời gian này ông đưa ra một tác phẩm có tên " Quyền lực của
không quyền lực", tác phẩm này có ảnh hưởng rất lớn nhất là các nước xã
hội chủ nghĩa.
+ 1989: là một trong những người sáng lập và lãnh đạo “ Diễn đàn công dân" đưa ra các sáng kiến dân chủ, sau này là nhân tố
chính cho "Cách mạng Velvet". Cũng trong năm này ông được bầu làm tổng thống tạm thời cho Tiệp khắc đến khi bầu cử nghị viện. Cuộc bầu cử tự do sau
đó đã bầu ông làm tổng thống từ tháng 07/1990 với nhiệm kỳ 02 năm.
+ 20/07/1990: Từ chức tổng thống vào lúc 18:00, với lý do được đưa ra là không còn tiếp tục cam kết trung
thành với nước cộng hòa Séc và Slova nữa.
+1993: được bầu là tổng thống đầu tiên của cộng hòa Séc.
Ông được rất nhiều các giải thưởng và danh hiệu trao
tặng của các tổ chức quốc tế ( UNESCO , Olof Palme,..) và các trường đại học (York Canada, Columbia New York,...)
Một trong những phát
biểu nổi tiếng của ông là " Tất cả chúng ta đều đang sống trong một kỷ nguyên đa cực (không phải 02 cực như thời chiến tranh
lạnh: ND) dù chúng ta đã
từng là người nô lệ hay là ông chủ thì kỷ nguyên này cũng sẽ tạo ra cái mà tổng
thống vĩđại Lincoln đã gọi là " Gia đình con người", kinh nghiệm làm việc với
những người đối
lập đã dạy cho ông thấy rằng ý thức vượt lên sự tồn tại không như triết học của
Marx đã
dạy một cách sai lầm " " sự cứu rỗi thế giới loài người không dựa
trên cái gì khác ngoài tình thương con người, năng lực phản ánh của con người,
sự hiền lành của con người và tính trách nhiệm của con người."
3. Andreil Sakharov: Sinh ngày 21/05/1921 tại Nga mất ngày 14/12/1989 . Nhà khoa học
vật lý hạt nhân, nguyên tử xuất sắc của Liên bang Xô viết cũ, đã được phong tặng Anh hùng lao động và các giải thưởng Lê-nin, Stalin. Được giải Nobel hòa bình năm 1975. Và trên hết
là một nhà khoa học đấu
tranh không mệt mỏi cho Hòa bình, Nhân quyền, Dân chủ, Giải trừ vũ khí. Ông là
một trong những nhà khoa học trẻ trong nhóm nghiên cứu bí mật của Liên bang Xô
viết cũ với nhiệm vụ phát triển vũ khí nguyên tử từ năm 1948 -1968, mặc dù
trong một thế giới khép kín, cách biệt với bên ngoài, ông đã nhận thức được các hậu quả nguy hiểm của các thử nghiệm
hạt nhân với con người ( tàn phá, ảnh hưởng tới di truyền,... ), chính điều đó đã thúc đẩy ông viết một bản đề nghị chân thành tới nhà
nước liên bang về vấn đề
đó, ông hy vọng sẽ mở ra các trao đổi quan điểm một cách tự do và cởi mở, nhưng
ông đã
hết sức thất vọng. Theo ông, sự nguy hiểm của chạy đua vũ khí ( trong đó có hạt nhân) chỉ có thể
loại bỏ được bằng cách thông qua sự hợp tác hơn là các tranh cãi về tư tưởng
hay dân tộc. Năm 1970 ông cùng một số người bạn và đồng nghiệp lập nên " Ủy ban vì Nhân quyền
", mục đích
của ủy ban này là hoạtđộng trong khuôn khổ các nguyên tắc nhân quyền của Công
ước về Nhân quyền của Liên họp quốc năm 1948 để đấu tranh cho các mục tiêu: Bãi
bỏ xét xử kín; Luật báo chíđảm bảo cho mọi người có đầy đủ thông tin; Cải cách
hệ thống nhà tù; Ân xá các tù chính trị; Bãi bỏ án tử hình; Mở cửa biên giới;
và cấm sử dụng các viện tâm thần vì mụcđích chính trị. Trong bài diễn văn đọc
tại lễ trao giải thưởng Nobel hòa bình năm 1975, bà AASE Lionaes - Chủ tịch Ủy
ban Nobel của quốc hội Na-uy đã nhắc lại câu nói của Goethe được Sakharov đưa vào trong tác phẩm "
Manifesto" của ông năm 1968: “ Chỉ những con người đấu tranh liên tục cho
chính bản thân mình mới xứng đáng được hưởng Tự do và Cuộc sống ".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét