Cảm ơn quý vị đã ghé thăm blog! Chúc quý vị có giây phút vui vẻ!

Thứ Năm, 20 tháng 6, 2013

Không nói ai cũng biết. Nhưng cũng phải nói thêm: ai cũng biết nhưng không ai dám nói!



Cảm thông, chia sẻ với những suy tư của Bộ trưởng Phạm Vũ Luận, tôi đã viết loạt bài về hiện trạng giáo dục Việt Nam. Tôi nhấn mạnh cái gốc thuộc vấn đề nhân sự, mà đã là nhân sự, không chăm lo đàng hoàng, nó di hại đến cả trăm năm!
Sự thực ấy, không nói ai cũng biết. Nhưng cũng phải nói thêm: ai cũng biết nhưng không ai dám nói!
Bởi vì nói về nhân sự là nói đến ai, nếu không nói đến lãnh đạo giáo dục các cấp??? Thế là ai cũng sợ nên giả câm giả dại!
Và dại khờ là những lũ người câm! Tố Hữu đã cảnh báo thế, và hôm nay toàn ngành giáo dục của ta thành giáo dục đặc biệt, sau cả thế kỉ nỗ lực vẫn không thể hòa nhập.
Sự an toàn của các lãnh đạo hiện nay là dân bị câm. Khi xảy ra sự vụ, các quan Bộ lại lên giọng hề chèo: dân không nói thì ai biết?
Năm năm trước, khi thanh tra vụ Trần Tín Kiệt, một số quan Bộ to mồm giữa hội trường trách đảng, trách dân, rằng có đảng ủy, có công đoàn, có thanh tra nhân dân, tại sao lại để Trần Tín Kiệt lộng hành? Trong khi họ thừa biết, Hiệu trưởng, Bí thư đảng, Nhà giáo ưu tú này do ai dựng lên và ai đã chống lưng cho y lộng hành!
Bây giờ thì hàng loạt các sự vụ: vụ Nguyễn Văn Nam, Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế quốc dân (tại đây) , vụ Nguyễn Văn Minh, Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm (tại đây), vụ Hoàng Văn Châu, Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại thương (tại đây), vụ Nguyễn Ngọc Thảo, Hiệu trưởng Trường Cao đẳng nghề Đồng Khởi (tại đây)…
Các sự vụ đều có sai phạm giống nhau đến không ngờ: “Dân chủ giả hiệu” để lũng đoạn đảng, lũng đoạn đoàn thể, kéo bè kéo cánh, gia đình trị, gian dối trong đào tạo và thu chi tài chính, tạo ra các danh hiệu, giá trị ảo…
Không biết khi thanh tra các vụ Hiệu trưởng này, mấy ông Bộ có còn cái điệp khúc: dân không nói thì làm sao lãnh đạo biết?
Trong khi, dân chúng tôi nghĩ, vì lãnh đạo thừa biết, nên dân chúng tôi làm sao dám nói!
Đến khi dân cất lên tiếng nói, thì chỉ có thể nói cho công luận biết, chứ nói cho các ngài biết để làm gì?
Nói thẳng ra, Hiệu trưởng do các ngài bổ nhiệm, mà bổ nhiệm một cách ngang ngược, ném từ trên trời xuống, bất chấp tín nhiệm của dân, chúng không lộng hành mới là lạ. Với cái quyền uy vô biên của các ngài như thế thì có là Tôn Ngộ Không cũng chắp tay vái dài, ném gậy xuống biển mà về với núi Hoa Quả cho xong!
Các đời Bộ trưởng đã nỗ lực tháo gỡ mọi rối rắm bùng nhùng của giáo dục, nhưng không thấy hoặc không dám đi từ gốc, nên càng gỡ, càng rối.
Những tiêu cực trong giáo dục chỉ là cái ngọn đang mọc ra từ cái gốc cây yêu quái trong huyền thoại do các ngài trồng lên, chặt nhánh này nó lại mọc ra nhánh khác.
Tôi nghĩ, hình ảnh Bộ trưởng Luận thọc tay vào túi quần lặng lẽ suy tư là suy tư làm sao chặt được cái cây yêu quái này để trồng lại cái cây thần lành mạnh khác!
Mà nếu ông thật sự suy tư về điều này thì cán bộ, nhân dân các trường đến lúc phải cùng nhau đoàn kết để giúp ông. Công cuộc cải cách giáo dục của ông chỉ có thể dựa vào dân. Nhưng từng trường đánh lẻ như vừa rồi chỉ có thể giải quyết cục bộ, mà hậu quả là một sâu Trần Tín Kiệt ra đi, các sâu khác lại ra đời.
Chỉ có thể lúc này là: Giảng viên các Trường Đại học và cán bộ giáo viên bị áp bức đoàn kết lại! Chống lưng cho Bộ trưởng làm cách mạng là nhân dân chứ không thể là cái “chân đất” của cá nhân ông!
Theo Blog Chu Mộng Long

Thứ Hai, 10 tháng 6, 2013

MỆNH LỆNH TỪ TRÁI TIM

MỆNH LỆNH TỪ TRÁI TIM
( HAY TÂM SỰ CỦA MỘT TRÍ THỨC VIỆT NAM
TRƯỚC HIỆN TÌNH ĐẤT NƯỚC)
BS NGUYỄN QUÝ KHOÁNG
(Việt Nam, ngày 10 tháng 03 năm 2013)
Trước tình hình đất nước ngày càng xuống dốc về xã hội, văn hoá, kinh tế, chính trị v…v, nhất là tương lai Đất nước rất đen tối trước hoạ xâm lăng của Trung Quốc, là người trí thức Việt Nam, tôi tự thấy lương tâm bị cắn rứt khi cứ im lặng chấp nhận những điều chướng tai gai mắt diễn ra hàng ngày cũng như nghe những lời than vãn của đồng bào mình.
Mục sư Martin Luther King có nói:
- “Kẻ nào chấp nhận cái ác mà không phản đối chắc chắn là tiếp tay cho cái ác lộng hành” (He who accepts evil without protesting against it is really cooperating with it) và
- “Cuộc đời của chúng ta bắt đầu chấm dứt khi chúng ta lặng thinh trước những vấn đề sống còn” (Our lives begin to end the day we become silent about things that matter).
Tôi luôn thỏi mình: Nếu mọi người dân, nhất là các trí thức, vì sợ hãi cho bản thân và gia đình mình, cứ tiếp tục im lặng trước hiện tình của Đất nước thì tương lai Nước ta sẽ đi về đâu? Chắc chắn sẽ rất đen tối ! Trước lời kêu gọi của Nhà Nước cho phép dân chúng góp ý sửa đổi Hiến pháp 1992 đến tháng 9 năm 2013 tới, nếu một số đông trí thức vẫn lặng thinh thì xem như chúng ta chấp nhận bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp do Quốc hội đưa ra nghĩa là vẫn “rượu cũ trong bình mới”, nghĩa là “vũ như cẩn”, vậy trách nhiệm với Đất Nước của chúng ta ở đâu? Gỉa sử đến một ngày, Đảng CSVN trưng cầu ý dân kêu gọi sát nhập Việt Nam vào Trung Quốc, thì chẵng lẽ chúng ta vẫn cứ im lặng hay sao? Lúc đó, liệu chúng ta còn giữ được mạng sống,vợ con, nhà cửa và của cải không? Gương nước Tây Tạng còn sờ sờ trước mắt.
Tôi đã cảm động đến rơi nước mắt khi nghe VIỆT KHANG hát bài “VIỆT NAM, QUÊ HƯƠNG TÔI ĐÂU?” và một trong những hình ảnh người dân đi biểu tình chống Trung Quốc trong những năm qua khiến tôi xúc động , nhất là hình một cô gái Việt Nam khóc trong tuyệt vọng. Tôi có cảm nghĩ như cô đang hết sức đau lòng khi thấy người dân Việt bày tỏ lòng yêu nước mà lại bị chính quyền do mình “bầu” lên ngăn cản, đạp vào mặt, bắt bớ, giam cầm…
Chính vì các lý do trên mà mặc dù rất ghét chính trị, tôi tự thấy không thể tiếp tục lặng thinh được nữa.Tôi mong muốn sự lên tiếng của mình sẽ đóng góp một phần nhỏ cho sự thay đổi của Đất nước, cho tương lai của các con cháu chúng ta. Thay đổi hay không là tuỳ theo Đảng và Nhà nước có thật lòng lo cho dân, cho Nước không? Còn nếu một ngày xấu trời nào mà Nước Việt chúng ta chịu chung số phận của Nước Tây Tạng thì tôi cũng tự thấy mình đã làm hết sức rồi và sẽ không thẹn với lương tâm trước khi nhắm mắt. Nếu có ngày đó thật thì quả là sống không bằng chết vì mất Tổ quốc là mất tất cả!
Đối với tôi, cuộc đời chỉ có ý nghĩa khi mình sống có ích cho người khác. Chính vì lý do đó, mặc dù có giấy bảo lãnh đi Canada đoàn tụ gia đình năm 1982, tôi đã chấp nhận ở lại quê hương để làm công tác của một Thầy thuốc hầu xoa dịu bớt đau khổ của bệnh nhân cũng như đào tạo thêm các bác sĩ về X Quang, Siêu âm.Thành thật mà nói, đến giờ phút này, tôi chưa bao giờ hối tiếc về sự chọn lựa đó. Công tác tại Bệnh viện đa khoa Tỉnh Tây Ninh từ 1977 đến 1983 rồi tại Bệnh viện An Bình,Tp Hồ Chí Minh từ 1983 đến 2009 tổng cộng là 32 năm, tôi được mời vào Đảng CSVN 2 lần nhưng tôi đã từ chối vì không thích làm chính trị, không thích theo bất cứ một phe phái nào. Tôi chỉ thích làm chuyên môn và dạy học mà thôi.
Cách đây không lâu, tôi đã ủng hộ Kiến nghị sửa đổi Hiến Pháp 1992 do 71 nhân sĩ trí thức công bố ngày 19 tháng 1 năm 2013 tại Hànội với số thứ tự trong danh sách những người ký tên là 7035.Tôi biết khi làm việc này, tôi có thể gặp nhiều rủi ro nhưng không sao vì tôi đã sẵn sàng, đến chết là cùng chứ gì!
Xưa kia, tôi đã chọn ở lại quê hương để phục vụ bệnh nhân và các thế hệ thầy thuốc trẻ, giờ đây, tôi nói lên chính kiến của mình để xây dựng và bảo vệ Đất nước vì đối với tôi, cuộc đời mỗi người như một quyển tiểu thuyết đầy đủ hỷ, nộ, ái, ố, quan trọng là quyển sách đó có hay không chứ không phải nó có dầy hay không!
Nếu có một ngày tôi bị bắt, công an sẽ hỏi tôi (như đã từng hỏi những Bloggers, những người bất đồng chính kiến, những người biểu tình…) là ai đã xúi dục, cho bao nhiêu tiền…thì tôi đã có sẵn câu trả lời: Không ai có thể xúi dục được tôi, không ai mua chuộc được tôi mà CHÍNH LƯƠNG TÂM TÔI ĐÃ MÁCH BẢO, CHÍNH TRÁI TIM TÔI ĐÃ THÚC DỤC TÔI LÀM THẾ!
Cuối cùng, xin cầu mong đất nước Việt Nam chúng ta được độc lập, tự do, hạnh phúc thật sự.
 

Thứ Năm, 6 tháng 6, 2013

Nhận xét chua sót của Nguyễn thu Trâm

Vậy là ngày mai họ đưa hai người yêu nước Việt Khang và Trần Vũ Anh Bình ra tòa.
Lại một phiên tòa của những kẻ bán nước xét xử người yêu nước như nhiều phiên tòa từng diễn ra trên đất nước Việt Nam suốt từ 37 năm nay. Những phiên tòa phi lý vô nhân và bất công đã khiến cho hàng chục ngàn gia đình nát tan ly loạn vì người thân của họ vì quá yêu nước mà lụy vòng lao lý tù đày mà không ít người trong số đó, sau phiên toàn rồi không bao giờ trở về nữa.
Và ngày mai này đến lượt các anh phải ra tòa chỉ bởi các anh đã nói thay cho triệu người Việt Nam về nỗi ưu tư trước thảm họa mất nước, trước nguy cơ bị diệt vong hay đồng hóa của giống nòi.

Có đâu trên thế gian này lòng yêu nước cần phải được kín giấu, nếu không muốn bị xỉ vả, bị đấu tố, bị giam cầm tra tấn và bị tù đày?
Có đâu trên thế gian này sự gian trá, lường láo, bịp bợm và phản trắc lại được tôn vinh là quang vinh muôn năm, là đời đời sống mãi… ?
Truyền thuyết một mẹ trăm con của Việt Tộc khiến người Việt gọi nhau bằng hai tiếng “Đồng Bào” nghe gần gũi thân thương và cao cả quá, nhưng sao lại mỉa mai và nghịch lý đến thế này, sao lại vị bất đồng chủng mà quay lại giết hại đồng bào mình?
Sao lại “Quan san muôn dặm một nhà, bốn phương vô sản đều là anh em” mà lại không anh em với những người cùng mình sinh ra từ một bọc trứng?
Phải chăng vì đất nước này vốn tồn tại nhiều nghịch lý, nên con người ta cảm thấy bình thường trước nghịch lý và phản cảm trước những cái chân thiện  mỹ?
Đâu rồi những ngày sinh viên, trí thức, Phật tử miền nam xuống đường chống lại cuộc chiến tranh ngăn chặn làn sóng đỏ của chính thể Quốc Gia đang bảo vệ nền tự do cho đồng bào Nam Việt trước họa xâm lược của cộng quân Bắc Việt?

Đâu rồi phong trào “Hát cho đồng bào tôi nghe và nghe đồng bào tôi hát”? Đâu rồi phong trào vận động người dân đấu tranh đòi chấm dứt cuộc chiến chống cộng của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, phản đối sự hiện diện của quân đội đồng minh Hoa Kỳ trên đất nước Việt Nam trong cuộc chiến tranh Quốc-Cộng, đòi lật đổ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, đòi Hoa Kỳ phải rút hết quân đội ra khỏi miền Nam Việt Nam, để cho “Bác cùng chúng cháu hành quân vào Sài Gòn…” đánh đổ giai cấp tư sản xanh để xây dựng nên giai cấp tư sản đỏ? Để rồi hàng hàng lớp lớp người dân Sài Gòn và cả Miền Nam phải đánh đổi hết cả gia sản và cả tính mạng của mình nữa để vượt biển đi tìm tự do, bởi những bài xích tự do của những sinh viên trí thức này.

Trương Thìn
Đâu rồi sinh viên y khoa Trương Thìn, Đâu rồi các nhà thơ Lê Văn Ngăn, Lê Gành, Trần Vàng Sao, Trần Phá Nhạc, Đông Trình, Đoàn Khắc Xuyên, Hoàng Nghĩa? Đâu rồi các nhạc sỹ Trần Quang Long, Miên Đức Thắng, Tôn Thất Lập, Trương Quốc Khánh, Trần Long Ẩn, Nguyễn Văn Sanh, La Hữu Vang, Nguyễn Xuân Tân, Nguyễn Tuấn Kiệt, Nguyễn Nam, Nguyễn Phú Yên,.. Vũ Đức Sao Biển, Xuân An, Hải Hà, La Hữu Vang với "Dậy Mà Đi" "Tổ Quốc Ơi Ta Đã Nghe", "Hát Trong Làn Khói Đạn"?
Đâu rồi các "Hội Tết Quang Trung Sài Gòn" năm 1967? Đâu rồi "Đêm nhạc Tôn Thất Lập" ở Đại học Dược khoa Sài Gòn năm 1967? Đâu rồi "Đêm thơ nhạc" ở Đại học Sư phạm Huế vào tháng 12 năm 1967  xuống đường, với các chiến dịch đốt xe tăng Mỹ, để đón xe tăng của Nga Sô Trung Cộng vào nghiền nát hàng ngàn đồng bào đang trên đường lánh nạn, trước khi húc đổ cổng Dinh Độc Lập và treo ngọn cờ máu lên nóc dinh để báo hiệu sự cáo chung của một nền tự do dân chủ của dân tộc.

Nhạc Sỹ La Hữu Vang
Tôi không biết từ sau ngày miền Nam bị hoàn toàn nhuộm đỏ nhờ sự đóng góp không nhỏ cả các sinh viên, trí thức, thi sỹ, nhạc sỹ và của các anh, đã có ai trong số các anh lại phải cũng đồng bào miền Nam băng rừng, vượt biển đi tìm tự do? Có ai trong số các anh phải vĩnh viễn nằm lại dưới lòng biển lạnh, và co ai đã may mắn đến được bến bờ tự do, để các anh có thể thấy được cái giá trị đích thực của tự do cũng như cái giá mà con người phải trả để đạt được nó. Bởi do cái thói tục ở đời khi người ta đang có cái gì trong tầm tay thì không biết trân trọng giữ gìn, thậm chí còn “xuống đường” chống báng lại nó, để khi nó vuột khỏi tầm tay thì con người ta lại phải quay quắt kiếm tìm mà cuộc tìm kiếm không phải chỉ trả giá bằng bạc vàng mà còn bằng chính cả mạng sống.

Nhạc Sỹ Trần Long Ẩn
Các anh Trương Thìn, Lê Văn Nuôi, Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Hiếu Đằng… Các anh có công lớn lắm trong công cuộc đánh đuổi đế quốc Mỹ ra khỏi miền nam tự do để tiếp rước đế quốc Đại Hán về cho cả mọi miền đất nước. Lịch sử đảng cộng sản đã ghi nhận công lao của các anh rằng: “Có lẽ trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, chưa có cuộc "ra quân" nào của giới trí thức rầm rộ và có ảnh hưởng trực tiếp, sâu rộng như phong trào Hát cho đồng bào tôi nghe. Phong trào này đã góp phần không nhỏ trong việc tập hợp thanh niên, học sinh, sinh viên tham gia phong trào đấu tranh tại các đô thị miền Nam Việt Nam trong những năm chiến tranh.”. Vâng, chúng tôi cũng xác nhận rằng các anh là các công thần của chế độ cộng sản. Nhưng hiện giờ các anh đang làm gì? Ở đâu và đang sinh sống ra sao? Sao không xuống đường biểu tình chống Trung Cộng?

>
>  

Các anh có biết rằng hiện nay, có nhiều người thuộc thế hệ các anh, thuộc thế hệ em, cháu các anh cũng vì lòng yêu nước, nhưng hơi khác các anh một chút- là họ yêu nước mà không yêu CNXH- điểm giống các anh là họ cũng đã làm thơ cũng đã viết nhạc, nhưng thơ của họ đơn sơ, không đồ sộ như những tập san Đồng Dao, Đối Diện, Đứng Dậy của các anh, thơ của họ chỉ mộc mạc như tâm hồn của họ rằng: “Vì Danh Dự Dân Tộc, Chống Giặc Tàu - Vì Tương Lai Đất Nước, Chống Tham Nhũng ” và nhạc của họ cũng giản dị chân chất như tấm lòng người Nam bộ chứ không được đồ sộ như những tập nhạc "Hát cho đồng bào tôi nghe" - tức Chúng ta đã đứng dậy - với lời tựa hùng hồn sắt máu của anh Huỳnh Tấn Mẫm năm xưa. Ấy vậy mà họ đã bị bắt giam cầm, bị tra tấn và ngày mai đây họ phải ra tòa để bị xét xử về tội yêu nước, về ý thức và tinh thần dân tộc chứ không phải tinh thần quốc tế vô sản.

Các anh có biết những vụ việc này không?
Các anh suy nghĩ như thế nào?
Sao các anh không tiếp tục “Hát cho đồng bào tôi nghe và nghe đồng bào tôi hát” nữa đi?
Sao các anh chỉ biết chống lại những người xây dựng và bảo vệ tự do, mà không dám chống lại những người mang đến thảm họa cho đất nước và tai ương cho dân tộc?
Sao các anh chỉ dám chống lại những người biết tôn trọng các anh, tôn trọng cả phẩm giá làm người của đồng bào các anh, mà các anh không biết chống lại những người đang chà đạp mọi quyền tự do căn bản của các anh và của cả dân tộc này?
>
>
> >
Sao các anh chỉ chống lại và bức tử một thể chế chính trị đã xây dựng và bảo về cho các anh đầy đủ mọi quyền tự do, kể cả quyền được chống lại họ mà các anh không biết chống lại một chế độ độc tài toàn trị đã tước đoạt của các anh và đồng bào các anh hết tất cả mọi quyền tự do, dân chủ cũng như quyền làm ngừơi và họ đang cõng rắn về cắn gà nhà và đang rước cả voi về dày mả Tổ?
Các anh Trương Thìn, Lê Văn Nuôi, Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Hiếu Đằng… và các thi sỹ nhạc sỹ, các sinh viên trí thức của Việt Nam đang ở đâu?

Thứ Tư, 5 tháng 6, 2013

Bài Thơ đau xé lòng của Nguyễn Phương Uyên

Bài Thơ đau xé lòng của Nguyễn Phương Uyên
QLB 
-  Bài thơ được Mẹ của Nguyễn Phương Uyên cho công bố sau phiên toà kết án em 6 năm tù giam vì tội yêu nước.
Ơi đồng bào Việt Quốc !
Đất nước không chiến tranh
Cớ chi đau thắt ruột
Sự tự hào ngộ nhận
Một chế độ bi hài sau chiến tranh
Bọn cường quyền gian manh cơ hội
Đào bới bóc lột dân lành
Núp dưới bóng cờ máu, bác đảng
Âm thầm bán từng mảnh đất quê hương
Tổ quốc thân yêu ơi!
Đồng bào thân yêu ơi!
Ôi, ta thương quá đi thôi!
Vết sẹo hằn sâu vào trái tim, trải dài theo năm tháng

Xuyên qua chiến tranh có những nấm mồ hùng vĩ
Người phơi thây ngã xuống mắt trừng trừng nhìn nhau
“Hậu thế ơi hãy giữ gìn non song”
Ôi đất nước giờ tả tơi từng mãnh trao cho giặc!

Sự hy sinh bất công!
Xứ sở linh thiêng có còn không?
Phật khóc, Thánh rơi lệ!
Công lý lưu lạc để đức tin chìm vào đáy biển

Tràn ngập hôn mê
Ơi thanh niên Việt Quốc!
Chúng ta là ai?
Hãy đứng lên trước vận mệnh tổ quốc

Giặc đang tràn tới ngõ
Hãy đứng lên đi
Đứng lên niềm tự hào để sử sách lưu danh
Đứng lên đi cho tự do tỏa sáng

Đứng lên đi giành lại nước của dân lành
Hởi tất cả những ai là đồng bào Việt Quốc
Hãy chúng tay giữ gìn cội nguồn cho con cháu mai sau.


Nguyễn Phương Uyên

Thứ Ba, 4 tháng 6, 2013

Nhìn xứ người mà lòng nhói đau

TP Seoul Hàn Quốc được công nhận là thành phố “thông minh” nhất thế giới. (Tiếng nói nước Nga 24.11.2011). “Seoul xếp thứ Nhất trong bảng xếp hạng thành phố “thông minh” của thế giới, được soạn thảo bởi hãng Ericsson, hợp tác với công ty tư vấn Arthur D. Little”. Hôm thứ Năm 10/11/2011, các phương tiện truyền thông Hàn Quốc đã đưa tin này.

Thành phố Seoul
Đứng sau thủ đô Hàn Quốc là Singapore. Ngoài ra trong Top-10 thành phố hàng đầu có Stockholm, New York, London, Tokyo, Paris, Bắc Kinh, Los Angeles và Thượng Hải. Các tiêu chí chính là tốc độ và chất lượng áp dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào cấu trúc đô thị. Seoul thắng cuộc vì đã thực hiện đầy đủ các chương trình môi trường, y tế, chăm sóc sức khỏe cho người dân. Singapore cũng áp dụng thành công sáng kiến ​​trong lĩnh này ”.
Kinh tế Hàn Quốc là nền kinh tế phát triển, đứng thứ ba ở châu Á và đứng thứ 10 trên thế giới theo GDP năm 2006. Kể từ 1954 (sau chiến tranh Triều Tiên) kinh tế Hàn Quốc đã phát triển nhanh chóng. Từ một trong những nước nghèo nhất thế giới, (nền kinh tế thua kém Sài Gòn miền Nam VN trong giai đoạn này) khắp nơi trong điêu tàn đổ nát, bởi cày qua xát lại của nội chiến Bắc, Nam, không đủ lương thực cho người dân (1955) Nhưng hai thập niên sau trở thành một trong những nước giàu nhất, sau Nhật Bản ở Đông Á. Cuối thế kỷ 20, Hàn Quốc là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất trong lịch sử thế giới hiện đại.GDP (PPP) bình quân đầu người của đất nước đã nhẩy vọt từ 100 USD vào năm 1963 lên mức kỉ lục 10.000 USD vào năm 1995 và 25.000 USD vào năm 2007. Bất chấp các ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khủng hoảng kinh tế châ Á 1997, nước này đã khôi phục kinh tế rất nhanh chóng và vững chắc. Người ta thường nhắc đến sự phát triển thần kỳ về kinh tế của Hàn quốc như là “Huyền thoại sông Hàn” đến nay huyền thoại này vẫn tiếp tục. Hàn Quốc cũng là một nước phát triển có sự tăng trưởng kinh tế nhanh nhất, với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân là 5% mỗi năm – một phân tích gần đây nhất bởi Goldman Sachs năm 2007 đã chỉ ra Hàn Quốc sẽ trở thành nước giầu thứ 3 trên thế giới vào năm 2025 với GDP bình quân đầu người là 52.000 USD và nếu ổn định tiếp 25 năm sau nữa Hàn Quốc sẽ vượt qua tất cả các nước ngoại trừ Hoa Kỳ để trở thành nước giầu thứ hai trên thế giới, với GDP bình quân đầu người là 81.000 USD Mà một Bắc Triều Tiên CS sẽ mất hàng thế kỷ cũng không có cơ may bắt kịp.

Tất cả dường như khởi đầu từ Tổng thống Lý Thừa Vãn. Có thể cá nhân ông có vài vấn đề còn bàn cải trong hậu trường chính trị, nhưng nhân dân Hàn Quốc cho ông là vị Tổng Thống đầu tiên đã thiết kế và tạo bệ phóng cho nền kinh tế Hàn Quốc cao lớn mạnh mẽ “Hóa Rồng” hôm nay!. Dự trữ ngoại tệ cho nền kinh tế 400 tỷ usd – So VN: 13 tỷ usd (nhưng VN nợ nước ngoài 36 tỷ usd).
Đọc tin xứ người, ngẫm lại xứ mình mà héo hắt ruột gan, bởi ở xứ đó (Hàn Quốc) đang hiện diện hàng chục ngàn nhân công lao động chân tay Việt Nam, đang vắt kiệt sức lao động trên công trường xây dựng, rét lạnh cứng người ngoài biển khơi trên các tàu đánh cá và hơn 30 ngàn “nhan sắc Việt” vừa là “osin” kiêm nhiệm làm “dâu” cô đơn trên xứ lạ quê người để chắc mót từng đồng ngoại tệ gửi về quê nhà…
Sao định mệnh hai quốc gia cùng thời điểm bị chia cắt Nam Bắc giống hệt nhau, nhưng định mệnh người dân hai nước hôm nay thì khác biệt như chủ, tớ, nô tỳ? Có rất nhiều biện minh “thiên cộng” đánh giá về vấn đề này, không rõ lắm trong chủ quan hay khách quan? Nhưng lịch sử vốn lạnh lùng vì không có trái tim, nên rất công bằng trong quang minh chính trực cho chúng ta những góc nhìn, phải chấp nhận nó là thực tế, rất chính xác dù có phi đạo đức hay đẫm máu và nước mắt.
Ông Hồ Chí Minh – Có thể chúng ta không quan tâm lắm đến nhiều danh vị hào nhoáng có vẽ là huyền thoại hay huyển hoặc mà người CS gán cho ông như: Tư tưởng,minh triết HCM tầm nhìn xuyên thế kỷ? gì gì nữa…??.  Nhưng có một câu nói của ông rất chí phải, mà chúng ta phải nhìn nhận đó là đúng: “Đất nước VN, Dân tộc VN là một, sông có thể cạn,núi có thể mòn,song, chân lý ấy không bao giờ thay đổi”. Dứt khoát, đó là chân lý bất di bất dịch cho dù bao lâu, sông cạn núi mòn thì nó vẫn là một, ông Hồ Chí Minh! vâng, chí ông rất minh mẫn để nghĩ được như vậy, nhưng rất đau đớn là ông không chịu “thông minh” hơn một chút để hiểu rằng nó là chân lý thì có bao lâu vẫn là chân lý như ông đã nói, dù Hiệp Đinh Genève 1954 có tạm thời phân chia đất nước vì ý thức hệ, vì hoàn cảnh nhất thời, sau đó năm, mười hay mươi năm sau thì Việt Nam sẽ hòa chung là một như chân lý của ông, trong một thời điểm thích hợp nào đó như Đông Tây Đức chẳng hạn. Trước đó, 1953 Nam Bắc Triều Tiên cũng chấp nhận giãi pháp này để hai bên Nam Bắc chấm dứt nội chiến. Tại miền Nam Hàn Quốc sau Hiệp Định hòa bình đình chiến, ông Lý Thừa Vãn đã lãnh đạo đất nước sắp xếp lại “giang sơn” khoan sức dân, không có khát vọng thống nhất đất nước bằng máu và nước mắt thêm nữa, ông ra sức chăm lo đời sống nhân dân, đặt nền móng cho một Hàn Quốc hùng mạnh sau này như nói trên. Thì tại Việt Nam ông Hồ Chí Minh đã hành động ngược lại, thay vì khoan sức dân thì ông lại thực hiện chỉ thị của quốc tế CS (Mao và Stalin), lập tức mở một cuộc đấu tranh giai cấp tàn bạo đẫm máu và nước mắt nhất trong lịch sử VN với CCRĐ từ 1953 – 1956 giết hại gần 200.000 ngàn lương dân vô tội, gây tan nát hơn nữa triệu gia đình ly tán khắp miền Bắc VN, hơn một triệu người chạy trốn vào miền Nam và sau khi đầu rơi máu đổ ở miền Bắc như thế đó ông vẫn chưa hài lòng tiếp tục xin viện trợ vũ khí từ Nga xô, Trung Quốc, xua quân vượt vĩ tuyến 17 phá vỡ Hiệp Định hòa bình Genève với chiêu bài “Giãi phóng miền nam” đang bị “ Mỹ Diệm” đày đọa kềm kẹp trong đói rách lầm than, chúng ta, những người Việt Nam trung thực ở hai miền đất nước thử nhìn lại vài hình ảnh cũ của hai miền Việt Nam để hiểu được hiện thực của đất nước 2 miền:
Và như thế là chúng ta đã hiểu được “mĩa mai” như thế nào là “giải phóng miền nam” để sau 20 năm nồi da xáo thịt, kết quả: Quân “Ta” thắng quân “Mình” với hơn ba triệu “địch quân” anh em máu đỏ da vàng phơi thây tại chỗ, một thế hệ thanh niên tinh hoa hai miền hy sinh vô nghĩa, mà giang sơn ông cha thì hao hụt đất trời biển đảo, nhưng không do đế quốc Mỹ xâm lược mà lại do chính đồng chí “4 vàng 16 tốt” gậm nhấm và cướp đoạt?
Tính ra 20 năm, kể từ 1955 đến 1975 Hàn Quốc, một quốc gia bị chia cắt như VN đã không lấy chiến tranh làm phương tiện, mà dùng mồ hôi công sức từ nhân dân xây dựng đất nước thành một quốc gia hùng mạnh phồn vinh như hôm nay, thì đảng CSVN lấy máu xương nhân dân, đất đai cương thổ của tiền nhân để đổi lấy một quốc gia nhược tiểu hôm nay, tướt đoạt một cơ hội phát triển của miền Nam VN.
Chúng ta thấy gì trên quê hương mình hôm nay? Trong khi chủ nghĩa xã hội CS bị cả thế giới nguyền rủa đào thải thì tại VN những người CSVN vẫn tiếp tục “lừa bịp” nhân dân VN với lời khẳng định “CNXH là khát vọng của nhân dân ta”?? Tổ chức khuyến khích xuất khẩu công nhân lao động ra khắp thế giới để bị bóc lột sức lao động, làm ngơ cho phép phụ nữ kết hôn làm “osin” cho khắp thiên hạ thì đảng CSVN vẫn cứ bịp bợm là “Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động”. Một Việt Nam đang nghèo, lạm phát nhất châu Á, nhì thế giới, nợ nước ngoài bằng 54% GDP nhưng người dân phải còng lưng nuôi một lúc tới “hai chính phủ” một chính phủ của nhà nước CS và một “chính phủ của đảng CSVN” từ TW tới địa phương? hai trăm quốc gia trong LHQ không quốc gia nào người dân đồng ý nuôi nổi một lúc hai cái “chính phủ song song” như thế này? và cũng không có đảng phái nào của hai trăm quốc gia ấy được “diễm phúc” như đảng CS của 5 nước thiểu số còn sót lại trên thế giới trong đó có Việt Nam hiện nay?
Những cái nghịch lý và bất hạnh tưởng như không thể có trong thế kỷ này của nhân loại văn minh trên thế giới nhưng nó cứ như xúc tu của loài bạch tuộc bám chặc mãi vào cơ thể nhân dân Việt Nam – Liệu chúng ta còn chịu đựng đến bao giờ?

Hoàng Thanh Trúc

Bệnh anh hùng



Ảnh: flickr
Anh hùng không phải là điều xấu, nhưng khi nó trở thành một ám ảnh thường trực, đã biến thành bệnh. Ví dụ, giữ gìn cơ thể sạch sẽ để phòng bệnh, là thói quen tốt. Nhưng sợ vi trùng đến nỗi bị ám ảnh như nhà kỹ nghệ nổi tiếng Howard Hughes, là người bị bệnh hiểm nghèo, tiếng chuyên môn gọi là hypochondriac. Theo triệu chứng tỏ tường, Việt Nam đã mắc “bệnh anh hùng”. Tiếng chuyên môn viết tắt là HOC, do ở tiếng Anh Heroic Obsessive Compulsive Disorder. Bệnh [H]OCD hay “bệnh anh hùng” đáng sợ hơn tất cả các chứng bệnh khác. Người bị các bệnh khác, bao giờ cũng mong được chữa khỏi, và chịu khó chữa trị. Trái lại, người mắc bệnh anh hùng luôn tự hào về căn bệnh của mình, nên không thể chữa.
Mười năm qua, tôi đã lui tới Singapore bốn lần, nhưng các lần trước ít chú ý về tình hình tại đây. Một tháng ở đó trong lần chót vừa rồi, gặp đúng dịp đảo quốc này kỷ niệm bốn mươi năm ngày độc lập. Cũng trùng với dịp Việt Nam kỷ niệm sáu mươi năm cuộc Cách mạng tháng Tám, khiến tôi có ý định nêu ra mấy nhận xét đáng chú ý giữa Singapore và Việt Nam.
Không phải chỉ riêng tôi muốn so sánh Singapore với nước mình. Trong thời gian bão Katrina tàn phá, nhà bình luận thời sự nổi tiếng của báo New York Times là Thomas Friedman cũng có mặt ở Singapore. Ông đã viết hai bài trên trang bình luận của New York Times, và có những nhận xét về Singapore. Trong bài báo ngày 14-9, ông viết:
- “Nếu phải chọn bất cứ nơi nào ở Á châu để trải qua một trận bão, thì nơi đó nên là Singapore”.
Friedman nói như vậy, vì so sánh với nỗ lực của Mỹ cấp cứu nạn nhân bão Katrina, Singapore mau mắn và hữu hiệu hơn nhiều khi cứu nạn nhân sóng thần ở Nam Dương vào cuối năm ngoái. Được như vậy, vì trong việc chọn người vào các chức vụ then chốt ở Singapore, người ta không chọn theo tiêu chuẩn bồ bịch, như ông Bush chọn cựu giám đốc cơ quan cấp cứu liên bang (FEMA) Michael Brown, hay “hồng hơn chuyên” theo kiểu Việt Nam. Singapore chọn người theo tiêu chuẩn có khả năng nhất, và ít tham nhũng nhất. Để xứng đáng với khả năng và tránh tham nhũng, họ trả lương rất cao. Thủ tướng lãnh lương gần gấp ba lần tổng thống Mỹ, mỗi năm 1,1 triệu Mỹ kim; nhân viên chính phủ và thẩm phán Tối cao Pháp viện gần một triệu.
Friedman nhận xét rằng, vào buổi đầu, việc cai trị tốt rất quan trọng tại Singapore:
- “Vì đảng cầm quyền phải giành giựt tâm trí người dân với cộng sản, những người được tiếng là không tham nhũng và ân cần – khiến nhà nước phải cũng như vậy, hay khá hơn”.
Thật may mắn cho Singapore, cả phía cộng sản và không cộng sản. Nhờ những người không cộng sản nắm chính quyền mà Singapore được như ngày nay, và phe cộng sản nhờ không cướp được chính quyền nên ngày nay vẫn còn được tiếng là thân dân và không tham nhũng.
Trong bài thứ nhì vào ngày 16-9, Friedman viết về tình hình giáo dục tại Singapore. Theo ông, “chính quyền tại đây hiểu rằng, trong một thế giới phẳng (cả thế giới có thể thu gọn trong chiếc màn ảnh phẳng của máy computer), công việc có thể chạy đi bất cứ đâu thì khá hơn láng giềng chưa đủ. Cần phải đứng trên mọi người – kể cả chúng ta (Mỹ)”. Một hiệu trưởng cho biết:
- “…Chúng tôi đã nới lỏng đôi chút để cho phép học sinh nuôi dưỡng ý tưởng riêng của mình”, và “kiến thức có thể được tạo ra tại lớp học, chứ không phải chỉ đến từ thầy giáo”.
Vẫn theo Friedman, các học sinh lớp bốn và lớp tám tại Singapore đã đạt được điểm cao nhất trong các kỳ thi quốc tế về toán và khoa học do Timss tổ chức. Và sách toán của Singapore đã được trường Mỹ, nơi con gái ông theo học, sử dụng tại Maryland. Trong khi Singapore cố gắng vượt Mỹ về giáo dục, Việt Nam vẫn bắt buộc học sinh từ nhỏ đến lớn, muốn ra trường, phải học những môn “thầy không muốn dạy và trò không muốn học”, là môn “tư tưởng Hồ Chí Minh” và “lý thuyết Mác-Lê”. Ngoài ra, Việt Nam còn phí phạm nhân tài như kiểu tuyển những sinh viên ưu tú, gửi đi nước xã hội anh em Cuba, chịu cảnh đói rách, học những môn không phải sở trường của họ, như kinh tế và computer (theo phóng sự của báo Tiền phong, Hà Nội).
Bây giờ, xin trở lại âm vang hai lễ lớn của Singapore và Việt Nam. Cùng vào tháng Tám, một bên kỷ niệm 40 năm ngày độc lập (9-8), một bên kỷ niệm 60 năm ngày cướp được chính quyền (19-8). Việt Nam đi trước Singapore đúng 20 năm. Ngoài khác nhau về thời gian, còn khác nhau về người cầm quyền: Việt Nam có Đảng Cộng sản, với lãnh tụ Hồ Chí Minh; Singapore có Đảng Nhân dân Hành động (PAP – People’s Action Party), với lãnh tụ Lee Kuan Yew (Lý Quang Diệu).
Dân số Việt Nam hiện có 83 triệu rưỡi người. Dân số Singapore chỉ bằng số lẻ của Việt Nam, công dân thực thụ có ba triệu rưỡi, cộng với 700 ngàn người ngoại quốc tới làm việc, là 4,2 triệu. Nhưng Singapore đang sử dụng ba triệu rưỡi máy điện thoại di động, hơn Việt Nam một triệu đơn vị. Số ngoại tệ và vàng dự trữ của Singapore vào năm ngoái là 112,8 tỷ Mỹ kim, trừ đi số nợ phải trả cho ngoại quốc là 19,4 tỷ, nếu chia đều cho dân, mỗi đầu người được khoảng 26 ngàn Mỹ kim. Trong khi ấy, số dự trữ của Việt Nam là 6,51 tỷ MK, nếu trừ đi số nợ ngoại quốc là 16,55 tỷ, tính đổ đồng mỗi người dân phải mang nợ chừng hơn 100 MK. Bao giờ dân Việt Nam đông bằng dân Trung Quốc, số nợ mỗi đầu người phải gánh sẽ giảm xuống còn khoảng 10 MK.
Singapore chỉ cách Việt Nam hơn một giờ bay, tương đương khoảng cách Sài Gòn đi Hà Nội. Người dân Singapore cùng thuộc giống da vàng, chắc không thể thông minh và chịu khó hơn dân Việt. Singapore lại bị những điều kiện kém Việt Nam, như đất hẹp, không có tài nguyên thiên nhiên, và phải dùng tới bốn ngôn ngữ chính. Nhưng tại sao, độc lập sau Việt Nam 20 năm, ngày nay Singapore nằm trong số những quốc gia đứng đầu danh sách các nước trên thế giới, trong khi Việt Nam nằm chung với các nước dưới cuối? Hình như câu trả lời là chỉ vì hai tiếng “anh hùng” mà thôi.
Theo dõi Việt Nam kỷ niệm 60 năm Cách mạng tháng Tám, hai chữ “anh hùng” được nhắc tới nhiều hơn cả. Trước hết là diễn văn của Chủ tịch nước Trần Đức Lương tại Quảng trường Ba Đình vào sáng 2-9:
- “Nhìn lại những thành tựu vẻ vang của cách mạng Việt Nam 60 năm qua, chúng ta vô cùng tự hào về dân tộc ta, một dân tộc anh hùng… truyền thống yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân Việt Nam chính là những nhân tố cơ bản, cốt lõi làm nên sức mạnh vô địch của nhân dân Việt Nam trong thời đại mới”.
Rồi Chủ tịch:
- “vô cùng biết ơn và cảm tạ các bậc lão thành cách mạng, các bà mẹ Việt Nam anh hùng”,
trước khi kết luận:
- “Dân tộc Việt Nam anh hùng, nêu cao truyền thống tự tôn dân tộc, nhất định sẽ lập nên những kỳ tích mới…”
Báo Nhân Dân ngày 2-9, qua bài “Hà Nội, 60 năm nhìn lại” viết:
- “Trải qua 60 năm chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hà Nội đã vươn lên mạnh mẽ, xứng đáng là thủ đô Anh hùng của nước Việt Nam Anh hùng”.
Và viết tiếp:
- “Ghi nhận những thành tựu của Hà Nội trong hơn nửa thế kỷ qua, Đảng, Nhà nước trao tặng danh hiệu cao quý Thủ đô Anh hùng”.
Bài báo kết luận:
- “…với truyền thống lịch sử nghìn năm văn hiến, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thủ đô phấn đấu hơn nữa, đưa thành phố Hà Nội trở thành thành phố hiện đại, là trung tâm chính trị, văn hóa, khoa học, kỹ thuật của cả nước, xứng đáng là thủ đô Anh hùng của nước Việt Nam Anh hùng.”
Sài Gòn, đã mất địa vị thủ đô từ hơn ba mươi năm, cũng được tặng danh hiệu anh hùng. Báo Tiền phong Online ngày 2-9 tường thuật:
- “Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã thay mặt Đảng, Chính phủ trao danh hiệu ‘Thành phố Anh hùng’ cho lãnh đạo TP.HCM. Tổng Bí thư nhắc đến truyền thống anh hùng của thành phố mang tên Bác Hồ kính yêu”
Tự ca tụng mình là anh hùng chưa đủ, mạng lưới chính thức của Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 30-9 đã phổ biến lại bài bình luận của đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) ngày 29-8, mượn lời báo Mỹ để tự ca anh hùng:
- “Ngay ở Mỹ, Báo Bưu điện Washington, một trong những tờ báo có đông độc giả cũng vừa có bài khẳng định, chủ nghĩa anh hùng của nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh giải phóng này đã khích lệ và tạo nguồn cho hàng triệu người trên khắp địa cầu, kể cả tại Mỹ, đấu tranh chống lại chiến tranh và cường quyền” (“Báo Bưu Điện Washington”, có lẽ là Washington Post, nhưng không nói rõ bài báo xuất hiện ngày nào, nên người viết không thể kiểm chứng).
Theo dõi Singapore kỷ niệm 40 năm lập quốc, không nghe thấy ai nhắc tới hai tiếng anh hùng. Thủ tướng Lee Hsien Loong (Lý Hiển Long, con Lý Quang Diệu), trong cuộc nói chuyện lâu hai tiếng rưỡi, [1] không có lần nào ông trực tiếp hay gián tiếp nhắc tới công nghiệp của bố Lý, cũng không hề đả động gần xa tới Đảng Nhân dân Hành động, là đảng cầm quyền từ năm 1959. Trong khi ấy, Chủ tịch Trần Đức Lương của Việt Nam, trong bài diễn văn quốc khánh, đã hãnh diện:
- “Tự hào về Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc, tư tưởng và cuộc đời vẹn toàn của người mãi mãi là ngọn đuốc soi đường, là kho tàng vô giá của dân tộc ta cho hôm nay và cho cả mai sau. Sự cộng hưởng vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh, sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng Sản Việt Nam…”
Chính Hồ Chí Minh khi còn sống, cũng tự nhận mình là anh hùng. Trong dịp viếng đền Kiếp Bạc, nơi thờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, họ Hồ đã xuất khẩu thành thơ:
- “Bác anh hùng, tôi cũng anh hùng”.
Trong hai cuối tuần lễ lạt ăn mừng độc lập, Singapore không nói tới thắng lợi, không nhắc tới kẻ thù. Thủ tướng Loong nhấn mạnh:
- “Được như ngày hôm nay là nhờ “nhân dân chúng ta, tư tưởng chúng ta, và hành động của chúng ta. Điều quan trọng hơn cả là chúng ta đã tạo được một tinh thần Singapore. Chúng ta can đảm nhưng nhân đạo, chúng ta tự tin nhưng không bao giờ tự kiêu”.
Trong khi đọc diễn văn, có lúc thủ tướng Singapore đã rưng rưng nước mắt, khi nhắc lại kỷ niệm khó quên, xảy ra trong dịp lễ độc lập năm 1968. Thời gian này, Việt Nam đã nổi tiếng thế giới với trận Tổng công kích Mậu Thân, với quyết tâm “giải phóng Miền Nam”, dù phải san phẳng dãy Trường Sơn và hy sinh hàng triệu người. Trong khi ấy Singapore đang bơ vơ, không biết sẽ làm gì để sống. Nước Anh, tuy đã trả độc lập cho Singapore, vẫn còn giữ lại căn cứ quân sự ở Seletar Air Base, hẹn đến năm 1971 mới ra đi. Nhưng đầu năm 1968, Anh quyết định rút sớm, khiến khoảng 150 ngàn dân trực tiếp hay gián tiếp làm cho quân đội Anh bị mất việc. Thu nhập của những người này bằng 20% tổng số lợi tức quốc gia. Singapore họp nhau kỷ niệm lần thứ ba ngày độc lập trong tình huống lo lắng như vậy. Sáng ngày 9-8, trời quang mây tạnh, nhưng trước khi cuộc lễ bắt đầu, mưa đổ tầm tã. Tất cả mọi người cố giữ nguyên hàng ngũ. Đó là niềm hãnh diện về sự quyết tâm, cũng là nỗi xót xa của Singapore trong lịch sử lập quốc của mình. Báo chí Singapore năm nay đã dành nhiều trang lớn, đăng bài vở, hình ảnh và phỏng vấn về lễ kỷ niệm mưa gió này. So với những trận mưa bom đạn mà dân Việt Nam phải chịu từ Bắc tới Nam, trải qua một trận mưa rào nhiệt đới, không bằng chuyện muỗi cắn. Nhưng với những người không muốn làm anh hùng, muỗi cắn cũng đau.
Trong khi Việt Nam sợ “diễn biến hòa bình”, Singapore chủ trương phải thay đổi, hay là chết. Thủ tướng Loong khẳng định:
- “Vì thế giới sẽ thay đổi, nếu Singapore vẫn như hiện nay, chúng ta chết”.
Trong khi Việt Nam cảnh giác về “bọn phản động trong nước”, và những “thế lực thù địch bên ngoài”, Singapore chủ trương xây dựng một “xã hội hợp quần” (inclusive society), thúc đẩy sự tham gia của mọi người trong nước, và sẵn sàng học hỏi từ các nước, kể cả Việt Nam. Thủ tướng Loong kể chuyện:
- “Tôi gặp một nhà vô địch Võ Nam Dương (silat), hỏi ông ta ai là đối thủ đáng sợ nhất tại cuộc tranh tài Á Châu SEA Games? Ông ấy nói Việt Nam. Tôi sốc. Tôi nói Việt Nam biết gì về Võ Nam Dương. Thái cực đạo, Kong fu, hay mấy môn võ cổ truyền Đông phương thì họa may, nhưng silat? Ông ấy nói đúng đấy. Từ con số không, họ bắt đầu học vào năm 1993, với hai huấn luyện viên Nam Dương. Mới đầu, không cơ sở, không vận động trường, không dụng cụ tối tân. Họ lấy mấy ống kim khí, buộc vào nhau thành khung, bọc lại, làm đệm, đấm đá, luyện tập vất vả. Sau vài năm, họ biết khá rồi, cho huấn luyện viên về, tự lo lấy. Bây giờ, họ là vô địch Đông Nam Á, đang nhắm chức vô địch thế giới. Và thứ võ này là môn thể thao hàng đầu ở Việt Nam”.
Ông Loong kết luận:
- “Chúng ta cần có một tinh thần như thế”.
Học võ mà bắt chước Việt Nam, đúng quá!
Singapore không có tài nguyên, một chút đất trồng rau cũng không có, ngay nước dùng hàng ngày còn lo thiếu. Tất cả mọi thứ đều phải nhập cảng. Chỉ còn vốn liếng đáng quý hơn cả là con người. Thay vì hy sinh con người để làm anh hùng, hay làm “nghĩa vụ quốc tế vẻ vang” như lời ông Trần Đức Lương, Singapore đã cố gắng chăm sóc và xây dựng người dân của mình để tạo một thành phố tiến bộ kiểu đệ nhất thế giới, nằm trong thế giới thứ ba. Singapore hiện nay là thành phố sạch sẽ vào hàng nhất thế giới. Người ta có thể đi bộ vẹt gót giày khắp phố lớn phố nhỏ, mà không sợ đạp cứt chó như ở Paris. Singapore cũng an ninh vào hạng nhất thế giới. Thẩm phán Tối cao Pháp viện David Souter bị tấn công khi đang chạy bộ gần nhà ở Washington DC, mới 9 giờ tối, vào cuối tháng Tư năm ngoái. Tôi từng bị móc túi ở New York, Paris, và bị người lái taxi lừa khi vừa ra khỏi phi trường Roma, nhưng hoàn toàn yên tâm khi di chuyển ngày hay đêm, đi bộ hay taxi tại Singapore.
Tuy tinh thần phục vụ của người Singapore hiện nay rất cao, ví dụ người tính tiền tại các chợ hay cửa hàng, mỗi khi trao đổi với khách, đều dùng cả hai tay và kính cẩn cúi đầu, miệng nói cám ơn, nhưng Thủ tướng Loong vẫn chưa hài lòng. Ông than rằng Singapore thiếu văn hóa phục vụ tự nhiên. Ông so sánh với người Thái, người Ấn, người Nhật, người Úc, mỗi khi gặp khách đều có lời chào trước khi vào việc, trong khi người Singapore hỏi ngay là mình có thể giúp gì, hay tệ hơn, là ông hay bà muốn gì. Ông đã coi việc phục vụ như một danh dự, và quyết định nâng cao phẩm chất phục vụ lên hàng quốc sách, trao cho một tổng trưởng chịu trách nhiệm. Trong khi Việt Nam nêu cao khẩu hiệu: “Noi gương Bác Hồ đời đời kính yêu”, khẩu hiệu mới của Singapore là “GST”, chữ đầu của “Greet, Smile and Thank” (CCC – Chào, Cười và Cảm ơn).
Giống như ông Reagan làm trong mỗi dịp đọc Thông điệp Liên bang, ông Lý Hiển Long đã giới thiệu, và kể những câu chuyện về mấy thường dân đặc biệt. Một trong những người được ông đề cao, là bà cựu thư ký 63 tuổi. Bà này vì hoàn cảnh, đã phải đổi nghề nhiều lần. Cuối cùng, nhận việc lau chùi cầu tiêu, kiếm thêm tiền để dành cho con đi hoc. Con bà không muốn, hỏi bà: Sao má hạ mình quá thấp như vậy? Bà trả lời, chùi cầu tiêu không làm mất nhân phẩm. Làm để sống, đâu có trộm cắp ai. Kết thúc câu chuyện, ông muốn mọi người “biết và tin rằng phục vụ là việc làm danh dự. Không phải là những việc thấp hèn”.
Qua việc Thủ tướng Singapore đề cao người chùi cầu tiêu, khiến tôi liên tưởng tới chuyện mới xảy ra tại trụ sở Liên Hiệp Quốc. Trong phiên họp thượng đỉnh cấp quốc trưởng tại Hội đồng Bảo an của khóa họp thứ 60, Đại Hội đồng LHQ ở New York vào ngày 14-9-05, ký giả của hãng Reuters, dùng ống kính nhìn xa, đã chụp được tay tổng thống Bush đang viết một cái note cho Ngoại trưởng Condoleezza Rice ngồi cạnh. Phóng ảnh to lên, đọc được mấy chữ của ông Bush, không phải chuyện sống còn của thế giới, mà là:
- “Tôi nghĩ rằng tôi cần đi cầu. Liệu có được không?” (I thinhk I may need a bathroom break. Is this possible?).
Điều này nhắc nhở mọi người một thực tế là, dù có quyền lực lớn chưa từng ai có được trong lịch sử loài người như ông Bush ngày nay, cũng không thể cưỡng nổi tiếng gọi của thiên nhiên. Vậy thì, hạnh phúc trong cuộc sống thường ngày, không nên đo bằng tiền bạc hay quyền cao chức trọng, hãy đo bằng chỉ số cầu tiêu.
Singapore là nơi nhiều cầu tiêu và sạch sẽ nhất thế giới. Washington, DC. nhờ có nhiều bảo tàng viện và đài kỷ niệm, nơi nào cũng đầy đủ cầu tiêu, nên cũng đỡ. Paris tệ nhất, vừa ít, thiếu vệ sinh, lại phải trả tiền. London khá hơn, nhưng vẫn không có nhiều. Tại New York, năm 1990, Trung tâm Công lý Đô thị (Urban Justice Center) đã kiện thành phố vì không cung cấp đủ nhà vệ sinh công cộng. Dù vậy, trải qua ba đời thị trưởng, kể cả thị trưởng nổi tiếng thế giới Giuliani cũng không thỏa mãn được nhu cầu này. Mới đây, ông thị trưởng Bloomberg đã chọn công ty Cemusa của Tây Ban Nha để thiết lập 20 nhà cầu trên đường phố.
Trong khi ấy, tại Singapore, nhìn chỗ nào cũng thấy dấu hiệu nhà vệ sinh. Tại các tiệm bán hàng lớn, nhà vệ sinh nhiều gấp hai gấp ba lần so với bên Mỹ. Ví dụ tại Tyson Corner, khu thương mại lớn nhất ở ngoại ô Washington, DC., khách của nhà bán hàng vào loại sang Nordstrom, nhiều khi từ tầng này phải qua tầng khác, kiếm mãi mới thấy WC. Tại Singapore, tiệm Takashimaya ở đường Orchard, trong cả 7 tầng, mỗi tầng đều có bốn nhà vệ sinh, hai nam, hai nữ. Ngoài số lượng, nhà vệ sinh Singapore còn có phẩm chất cao, chỗ nào và lúc nào cũng sạch sẽ. Lần đầu tiên tới Singapore, thấy ở đây đôi chỗ vẫn còn dùng loại bàn cầu kiểu cổ như ở Việt Nam, tuy cũng tráng men sạch sẽ, tôi bèn tìm hiểu, mới biết rằng, vì công chúng có nhiều người vẫn còn thích xài kiểu cổ. Vệ sinh hơn kiểu mới và đỡ phải lót giấy khi ngồi. Ngoài ra, còn cái thú hồi hộp khi sử dụng, phải tính toán, cân nhắc như một cao thủ thể thao, hay một nhà thiện xạ, rót sao cho trúng mục tiêu. Lần chót vừa rồi ở Singapore, tôi vào chỗ đi tiểu tại một tiệm bán hàng trên đường Orchard. Vừa đứng trước bồn, đang còn sửa soạn, chưa kịp trình diễn, đã thấy nước trong bồn tự động xịt cái ào. Nghĩ bụng chắc có trục trặc kỹ thuật. Trình diễn xong, nước tự động xịt lần nữa. Bán tín bán nghi, bèn đứng thử trước mấy bồn khác, thấy cái nào cũng xịt hai lần trước sau như vậy. Tuy đã ở Mỹ ba mươi năm, lúc ấy tôi có cảm tưởng mình như anh nhà quê lần đầu ra tỉnh.
Bây giờ, xin ghé qua “nước Việt Nam Anh hùng”. Rất tiếc, tôi đã không có mặt tại Việt Nam, để có thể nhận xét tại chỗ, như đối với Singapore. Tuy nhiên, những gì nêu ra sau đây, đều là những tài liệu chính thức đã công bố từ Việt Nam. Theo báo DanTri.com.vn, du khách ngoại quốc đã phiền hà rất nhiều, vì Việt Nam thiếu nhà vệ sinh công cộng. Những nơi có nhà vệ sinh thì bị đòi tiền quá giá chính thức. Những nơi không nên có nhà vệ sinh, thì lại có, như cạnh chỗ nấu ăn, khiến thực khách từ chối không ăn. Vẫn theo báo này, một doanh nhân đã khuyên:
- “Khoan hãy nói tới những chuyện to tát khác, khoan hãy tốn tiền cho những chuyến đi quảng bá hình ảnh du lịch ở nước ngoài, nếu chưa lo được… cái W.C cho du khách!”
Trong khuôn khổ kỷ niệm 60 năm Cách mạng tháng Tám, ngày 18-8, Bộ Ngoại giao Việt Nam long trọng công bố cuốn sách “Thành tựu bảo vệ và phát triển con người ở Việt Nam”, dư luận quen gọi là Sách trắng về Nhân quyền. Cuối mục “Bảo đảm quyền về y tế”, sách ghi nguyên văn:
- “Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng hố xí hợp vệ sinh năm 1995 là 27,33% (thành thị 54,9%, nông thôn 17,3%), năm 2000 là 44,07% (thành thị 81,77%, nông thôn 32,49%).”
Những con số này nói gì? Con số đầu cho biết trong nửa thế kỷ dưới quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chỉ có hơn một phần tư trong số gần 80 triệu nhân dân Việt Nam anh hùng được sử dụng hố xí hợp vệ sinh, còn hơn 50 triệu dân vẫn phải bài tiết một cách thiếu vệ sinh. Con số thứ nhì cho thấy, 55 năm sau khi cách mạng thành công, hơn một nửa nhân dân anh hùng vẫn chưa có được cái hạnh phúc nhỏ nhoi là sử dụng hố xí hợp vệ sinh.
Năm ngày sau lễ Độc lập 2-9, từ “thủ đô Anh hùng của nước Việt Nam Anh hùng” (chữ của báo Nhân Dân), trong khi trả lời một bài phê bình, nhà văn Dương Thu Hương, mới đi ngoại quốc về, nói rằng:
- “Tôi trở lại Việt Nam là để ỉa vào mặt kẻ cầm quyền”.
Thú thật, lúc đầu tôi hơi bị sốc khi đọc câu này. Nhưng nghĩ lại, tôi thấy chẳng qua cũng chỉ là phản ứng tự nhiên của nhà văn. Đảng đã cầm quyền 60 năm, hy sinh xương máu của vài ba triệu người, hy sinh hạnh phúc của vài ba thế hệ. Kết quả: hơn nửa số nhân dân vẫn không có nổi một hố xí hợp vệ sinh. Vậy, chỉ còn cách dùng ngay mặt kẻ cầm quyền làm hố xí. Chỉ e rằng cách giải quyết này cũng không hợp vệ sinh.
Sự khác nhau giữa Singapore và Việt nam đã phản ảnh rõ qua lời tuyên bố tiêu biểu của nhà lãnh đạo hai quốc gia trong lễ độc lập của mình. Tuy được xếp ngang với các nước hàng đầu thế giới về nhiều phương diện, Thủ tướng Lý Hiển Long vẫn tuyên bố:
- “Singapore chúng ta không có một văn hóa phục vụ tự nhiên…chúng ta còn phải cố gắng nhiều để đạt trình độ thế giới…” (In Singapore, we don’t have a natural service culture… we have a long way to go to reach world class…).
Trong khi Việt Nam xếp hàng với những nước cuối danh sách về nhiều phương diện, Chủ tịch Trần Đức Lương tuyên bố:
- “Dân tộc Việt Nam anh hùng, nêu cao truyền thống tự tôn dân tộc, nhất định sẽ lập nên những kỳ tích mới…”
Nhiều người thắc mắc, tại sao dân tộc Việt Nam thông minh, cần cù và hy sinh nhường ấy, vẫn không thể tiến bộ? Nhưng thử hỏi lại, mang trọng bệnh 60 năm, chưa chết đã là may, còn mong chi tiến bộ? Trong dịp kỷ niệm 40 năm độc lập, báo chí Singapore phỏng vấn nhà lãnh đạo lão thành Lý Quang Diệu về tương lai đất nước, ông trả lời:
- “Chúng ta đã không phung phí 40 năm qua và không lý nào chúng ta không thể phát lên được.” (We’ve not wasted the last 40 years and there’s no reason we can not make this breakthrough) .

Việt Nam đã phí phạm 60 năm qua, làm sao để phát lên được?

Mục tiêu hay thành quả của giáo dục là gì?



3. Mục tiêu hay thành quả của giáo dục là gì?
Mục tiêu là giáo dục con người để trở thành công dân có trách nhiệm và hữu ích cho gia đình và xã hội. Con người được giáo dục đúng mức sẽ trở thành người con hiếu thảo, cha mẹ yêu thương và có trách nhiệm với con cái và gia đình, vợ chồng yêu thương và có trách nhiệm với nhau. Ngoài xã hội, người có giáo dục – nhờ có kỹ năng học hỏi được – sẽ đóng góp tích cực vào công cuộc tạo ra, tích trữ của cải cho xã hội, đóng góp vào ngân quỹ quốc gia; lãnh đạo, xây dựng, cải tiến xã hội trở nên một môi trường sinh sống tươi đẹp hơn, văn minh hơn, phồn thịnh hơn.
Đặc biệt, người có giáo dục sẽ biết quý trọng những sản phẩm họ và đồng nghiệp tạo ra, có trách nhiệm hơn khi những sai trái có thể xảy ra. Họ sẽ trân trọng đồng tiền do chính mồ hôi và trí óc họ làm nên, và kính trọng sự hy sinh – đôi khi cả sinh mạng – của người khác đang bảo vệ trật tự công cộng, và an ninh quốc gia. Người có giáo dục sẽ biết quý trọng văn hóa của dân tộc họ cũng như những cái hay của người ngoài.
Ngoài ra, người có giáo dục sẽ cố tránh làm những điều trái lương tâm và vi phạm pháp luật. Họ sẽ cảm thấy xấu hổ khi làm điều gì trái với lương tâm, sẽ bị pháp luật nghiêm xử khi phạm pháp. Mặt khác, những ràng buộc của xã hội sẽ làm cho công chức và thương gia phải chịu trách nhiệm trước người dân và người tiêu dùng. Mặt khác, nhờ giáo dục, lương tâm nghề nghiệp và những ràng buộc của xã hội sẽ làm cho công chức và thương gia phải đắn đo hơn trước những hành động của mình, và chịu trách nhiệm nhiều hơntrước người dân và người tiêu dùng.
Thành quả lý tưởng – đôi khi không tưởng – của giáo dục là một xã hội hướng thiện, trong đó đời sống vật chất càng đầy đủ hơn, sức khỏe con người được chăm sóc tốt hơn, và nhất là con người không quá coi trọng vật chất, sống hợp đạo nghĩa, tôn trọng pháp luật và giá trị nhân văn.
 
4. Giáo dục bao gồm những môi trường nào?
Ba môi trường giáo dục là: gia đình, học đường (hay nhà trường), và xã hội. Gia đình là cái nôi hoàn thiện nhất để nuôi dạy con trẻ. Tình thương và sự chăm sóc ân cần của cha mẹ – và đôi khi ông bà, chú cô, cậu dì – có kiến thức, sẽ cho con trẻ khỏe mạnh, hạnh phúc, và tự tin. Khi lớn lên, xã hội là môi trường sống và làm việc suốt phần còn lại của cuộc đời mà con người va chạm, học hỏi điều hay và đôi khi sa ngã vào những tệ nạn. Xã hội chính là môi trường giáo dục phổ quát nhất mà con người học hỏi, thụ hưởng, hay phải chịu đựng hàng ngày.
Vì cuộc sống bận rộn và khó khăn, việc khoán giáo dục con cái cho nhà trường là chuyện thường tình. Tuy nhiên, nếu chỉ chú trọng vào giáo dục học đường sẽ không giải quyết tận gốc rễ sự suy thoái giáo dục. Nếu cha mẹ không có thì giờ chăm sóc, thương yêu con cái, sẽ rất khó dạy con nên người. Nếu cha mẹ kiếm tiền một cách bất chính, bất lương, trách sao con cái không sống cuộc đời lương thiện?
5. Giáo dục học đường cụ thể bao gồm những đề tài gì?
Người viết xin mạn phép đưa ra một số ý niệm ban đầu làm đề tài cùng suy ngẫm.
·         Mẫu giáo phải nhấn mạnh trung thực và bác ái.
·         Tiểu học phải bao gồm giáo huấn gia đình, vệ sinh thường thức, thể dục, và kiến thức tổng quát về địa lý, thiên nhiên.
·         Trung học phải hàm chứa giáo dục công dân, tâm sinh lý con người, cũng như kiến thức tổng quát về chính trị và lịch sử thế giới. Nói chung, giáo dục phổ thông phải quảng bá, miễn phí, và bao gồm đức dục, trí dục, và thể dục.
·         Giáo dục cao đẳng phải chú trọng hướng nghiệp.
·         Giáo dục đại học phải đặt trọng tâm vào khoa học kỹ thuật (sciences) và khoa học nhân văn (humanity); và bao gồm giảng dạy, nghiên cứu song song với phản biện, và quản trị.
Để chấn hưng, những yếu tố kết thành nền tảng giáo dục cho mọi lứa tuổi và mọi trình độ phải được phát triển bằng cái Tâm hướng thiện của người thầy cũng như người quản trị. Với một tư duy đúng đắn, từ nền tảng giáo dục căn bản mang sắc thái dân tộc, những kiến thức hay của nhân loại, những phương pháp nghiên cứu, giảng dạy, và quản trị cấp tiến sẽ được xây dựng lên, bổ sung vào, không nhất thiết phải theo mô hình Mỹ, Âu, Úc, hay Á.
Những sai lầm làm tha hóa giáo dục.

Trở lại vấn đề giáo dục hiện nay của ta, điều tôi lo lằng nhất là sự tha hóa trầm trọng của nó. Nói khủng hoảng nhưng nét chính của khủng hoảng ấy là sự tha hóa, biến chất. Giáo dục có nguy cơ trở thành phản giáo dục. Có nhiều nguyên nhân nhưng trực tiếp làm tha hóa giáo dục có ba sai lầm lớn mà tôi gọi là sai lầm hệ thống trong quản lý giáo dục.
Có thể nói không quá đáng tất cả những căn bệnh trầm trọng: gian dối, tiêu cực, dối trá, lãng phí, quan liêu… hiện đã đi vào xương tủy của giáo dục mà không một phong trào “nói không” nào có thể chữa trị được đều có nguồn gốc sâu xa liên quan tới sai lầm trong chính sách đối với người thầy.
1. Chính sách đối với người thầy. Đó là sai lầm đầu tiên và tai hại nhất do quan niệm lệch lạc về sứ mạng và vai trò người thầy trong nền giáo dục hiện đại. Phản ứng lại tư duy lạc hậu trong nhà trường cũ, gán cho thầy quyền uy tuyệt đối, biến giáo dục thành quá trình truyền đạt và tiếp thu hoàn toàn thụ động, là đúng. Nhưng từ đó đã xuất hiện tư duy cực đoan ngược lại, phủ nhận vai trò then chốt của thầy đối với chất lượng giáo dục. Với cách hiểu giáo dục thô sơ nặng về cảm tính, khi thì nhấn mạnh một chiều “học sinh là trung tâm”, khi khác tôn chương trình, sách giáo khoa lên địa vị “linh hồn giáo dục”, nhận định chất lượng đại học thấp “không phải do thầy mà do chương trình”, v.v... dẫn đến hoàn toàn xem thường việc xây dựng đội ngũ thầy giáo theo chuẩn mực chuyên môn và đạo đức hiện đại. Trong mọi khâu từ tuyển chọn đến sử dụng và bồi dưỡng người thầy, khâu nào cũng phạm sai lầm lớn. Đặc biệt tệ hại là chính sách lương. Ngay từ đầu đã bỏ qua kinh nghiệm muôn thuở “có thực mới vực được đạo”, trả lương cho thầy cô giáo dưới mức sống hợp lý, lấy cớ ngân sách eo hẹp (thật ra chỉ là do tham nhũng và sử dụng ngân sách không hợp lý), bỏ mặc các thầy cô “tự cứu” kiếm thêm thu nhập bằng mọi cách (dạy thêm, làm thêm, đến nỗi không hiếm giảng viên đại học dạy sô trên 30 giờ/tuần). Có thể nói không quá đáng tất cả những căn bệnh trầm trọng: gian dối, tiêu cực, dối trá, lãng phí, quan liêu… hiện đã đi vào xương tủy của giáo dục mà không một phong trào “nói không” nào có thể chữa trị được đều có nguồn gốc sâu xa liên quan tới cái lỗi hệ thống cơ bản này.
2. Tập trung tất cả việc dạy và học vào thi cử, nói rõ hơn là thay vì thi, kiểm tra thường xuyên nghiêm túc từng học phần để bảo đảm kết quả học tập vững chắc và thực chất thì dồn hết cố gắng vào các kỳ thi tốt nghiệp, thi “quốc gia” nặng nề, căng thẳng, rất hình thức mà thiếu nghiêm túc, sinh ra hội chứng thi rất đặc biệt của giáo dục VN: gần thi mới lo học, học đối phó, học nhồi nhét chỉ cốt để thi, thi cái gì học cái nấy, thi thế nào học thế ấy, chủ yếu là học thuộc lòng các loại bài mẫu, các đáp án mẫu. Trước đây thi theo bộ đề thi cho sẵn, nay bộ đề thi biến tướng thành các bảng “cấu trúc đề thi”. Nghĩa là tư duy có thay đổi gì đâu, hai mươi năm trời, tốn bao công nghiên cứu, cuối cùng trở lại gần như điểm xuất phát, dưới một hình thức có vẻ mới để che dấu một phương pháp cổ lỗ. Lại còn chuyện thi trắc nghiệm, thi tự luận. Người ta thi trắc nghiệm với một mục đích khác, ta không nghiên cứu kỹ, đưa ra áp dụng đại trà vào thi tốt nghiệp THPT trong khi trình độ chuyên nghiệp về kiểu thi này còn chưa bảo đảm, cho nên gây tốn kém và làm khổ cả học sinh lẫn thầy giáo. Rồi đùng một cái cấm các trường không được áp dụng hình thức trắc nghiệm khi thi học kỳ, làm cả thầy và trò hoang mang, không hiểu giáo dục là cái gì mà có thể quản lý tùy tiện như thế. Đem việc học phụ thuộc vào việc thi, khiến thi chứ không phải học trở thành hoạt động giáo dục chủ yếu, đến mức muốn hiểu thực chất giáo dục VN như thế nào chỉ cần quan sát hoạt động của nhà trường và xã hội trong mùa thi. Từ kiểu thi nhiêu khê đẻ ra những dich vụ kỳ lạ hiếm thấy: kỹ nghệ “phao” thi, thi thuê, viết luận án thuê, làm bằng giả, bằng thật nhưng học giả, v.v... Cho nên chừng nào còn duy trì kiểu học và thi này thì xã hội còn phải trả giá nặng nề cho sự tụt hậu của giáo dục. Chưa kể nếu tính hết mọi khoản chi trực tiếp và gián tiếp phục vụ cho các kỳ thi thì lãng phí lên tới con số khủng khiếp, bình thường đã khó chấp nhận, với tình hình kinh tế khó khăn như lúc này càng khó chấp nhận hơn. Nhiều nước như Trung Quốc hay Hàn Quốc, thi còn nhẹ nhàng hơn ta mà họ đã phê phán cái “địa ngục thi cử” của họ, còn thi cử như ta không biết phải gọi là cái địa ngục gì.

3. Chạy theo số lượng, hy sinh chất lượng, bất chấp mọi chuẩn mực, thông lệ và kinh nghiệm quốc tế, khiến việc hội nhập khó khăn và không cạnh tranh nổi ngay với các nước trong khu vực. Đây chính là bệnh thành tích, chứ không là gì khác. Phát triển số lượng thì dễ, nhất là khi người dân còn khát học tập như trong xã hội ta. Chỉ đảm bảo chất lượng mới khó, vậy nên cứ chọn cái dễ mà làm, dễ gây ấn tượng, dễ báo cáo thành tích. Trên đã vậy thì làm sao chống được bệnh thành tích ở dưới. Trong hoàn cảnh ấy mà có người còn bênh vực bệnh thành tích, viện lẽ chỉ nhấn mạnh chất lượng lúc này là xa xỉ (!), thì thật không hiểu nổi ta muốn phát triển giáo dục và khoa học theo kiểu nào. Nguy hại là căn bệnh này nghiêm trọng nhất ở cấp đại học và đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ, tuyển chọn, công nhận GS, PGS. Trong thời đại toàn cầu hóa, muốn hội nhập thành công, phải hiểu biết và tôn trọng luật chơi, trước hết là các quy tắc, chuẩn mực, thông lệ quốc tế. Thế nhưng từ các chuẩn mực thông thường nhất về cơ sở vật chất, đội ngũ giảng dạy, cho đến việc tuyển sinh thạc sĩ, tiến sĩ, đánh giá công trình nghiên cứu khoa hoc, đánh giá các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ, tuyển chọn, đánh giá GS, PGS, đánh giá các đại học... phần lớn đều không theo những chuẩn mực quốc tế mà dựa vào những tiêu chí tự sáng tác, nặng về cảm tính thô sơ, rất thấp và rất khác so với quốc tế, thiếu khách quan, thiếu căn cứ khoa học, thiếu minh bạch, dễ bị lợi dụng mưu lợi ích riêng cho từng nhóm thay vì phục vụ sự nghiệp chung. Sự thiếu hiểu biết và coi thường các chuẩn mực quốc tế thể hiện trong mọi chủ trương xây dựng đại học, cho đến gần đây nhất vẫn rất chủ quan. “Điếc không sợ súng” đó là căn bệnh cố hữu của ngành giáo dục.

Tất cả các sai lầm hệ thống nêu trên khiến giáo dục dần dần biến chất, xuống cấp, xa rời tất cả những giá trị cao quý còn sót lại từ quá khứ. Xu hướng tha hóa ấy phát triển có nguy cơ đẻ ra một nền giáo dục phản giáo dục.